Nâng cao hiệu quả xây mới, cải tạo hệ thống vườn hoa - công viên nội đô

Nâng cao hiệu quả xây mới, cải tạo hệ thống vườn hoa - công viên nội đô

(Vietnamarchi) - Một số vườn hoa - công viên được hoàn thành xây mới, cải tạo gần đây khiến cộng đồng có nhiều ý kiến tranh luận về chất lượng và hiệu quả sử dụng. Bài toán đặt ra lúc này chính là thiết lập các tiêu chí và chính sách để nâng cao hiệu quả xây mới, cải tạo hệ thống vườn hoa - công viên nội đô.
09:35, 10/04/2024

Những ngày đầu tháng 3/2024, khi người dân nội đô Hà Nội phải đối mặt trực tiếp với chất lượng không khí bị xếp hạng ở mức ô nhiễm nhất thế giới và TP.HCM là nắng nóng gay gắt bất thường, bài toán tạo dựng môi trường sống trong lành, tiện nghi, trên cơ sở gia tăng diện tích cây xanh, nâng chất vườn hoa -công viên trong nội đô lại trở thành vấn đề được luận bàn nhiều.

Nội dung này càng trở nên “nóng” hơn khi một số vườn hoa - công viên được hoàn thành xây mới hoặc cải tạo gần đây nhưng cộng đồng vẫn có nhiều ý kiến tranh luận về chất lượng và hiệu quả sử dụng. Bài toán đặt ra lúc này chính là thiết lập các tiêu chí và chính sách để nâng cao hiệu quả xây mới, cải tạo hệ thống vườn hoa - công viên nội đô.

Hiện tượng vườn hoa “zombie” tại nhiều đô thị

Thế giới đã dành riêng khái niệm “công viên, vườn hoa xác sống - zombie” được dùng để gán cho nhóm những không gian loại này hiện đã và đang tồn tại trên trên các quy hoạch, kế hoạch nhưng là những không gian thiếu vắng “linh hồn” và bản sắc, thiếu tiện nghi dẫn đến ít người sử dụng hoặc thậm chí để hoang.

Khái niệm này cũng được áp dụng đối với các không gian loại này bị “tái zombie” do đã được cải tạo nhưng có hiệu quả thực tiễn thấp đối với đô thị và đời sống cư dân.

Theo các đánh giá hiện trạng mới nhất, số lượng của hệ thống vườn hoa, công viên tại nhiều đô thị lớn theo quy hoạch và kế hoạch chỉnh trang đô thị là khá nhiều (Hà Nội khoảng 63 và TP.HCM khoảng 400). Tuy nhiên, các không gian vườn hoa - công viên xây mới bị chậm tiến độ theo quy hoạch cũng không ít.

Một số sau nhiều năm vẫn là các bãi đất trống, một số đang xây dựng dở dang không sử dụng được. Như tại Hà Nội, cuối năm 2023 vẫn có khoảng 5 dự án chậm tiến độ xây dựng và đưa vào sử dụng, điển hình như công viên Chu Văn An khởi công từ năm 2014; Công viên hồ điều hòa Phùng Khoang (quận Nam Từ Liêm); Công viên Hữu nghị (quận Bắc Từ Liêm); Công viên văn hóa, thể thao, vui chơi Đống Đa (giai đoạn 1)... Tại TP.HCM điển hình như: công viên văn hóa Gò Vấp (quận Gò Vấp); khu công viên cây xanh tại phường Thạnh Xuân và phường Thới An (quận 12)…

Tương tự, số lượng các vườn hoa công viên trong khu vực tại nhiều đô thị cần sớm được cải tạo, chỉnh trang cũng chiếm số lượng không nhỏ. Do bị xuống cấp nên đây chỉ là những không gian “nhàn nhạt”, thiếu bản sắc kiến trúc cảnh quan, thiếu tính thẩm mỹ và trang trí điểm nhấn đô thị, thiếu các tiện nghi sử dụng thiết yếu như nhà vệ sinh công cộng, bãi để xe…; một số hạng mục bị bong tróc nứt gãy mất an toàn…

Đặc biệt, một số không gian dù đã được cải tạo chỉnh trang, nhưng bị tường rào vây kín, tổ chức không gian và thẩm mỹ thiếu kết nối với không gian kiến trúc cảnh quan và văn hóa bản địa, việc tiếp cận sử dụng người dân khó khăn.

Do đó, bị “tái zombie” khi ít người sử dụng, thậm chí để hoang. nguy cơ hiệu quả sử dụng thấp, lãng phí nguồn lực đầu tư, thiếu tính thẩm mỹ hấp dẫn, thiếu tiện nghi tác động tiêu cực đến kiến trúc cảnh quan đô thị và tâm lý người sử dụng và đặc biệt là mất an toàn cho người sử dụng với trọng tâm là các nhóm yếu thế như người già, trẻ em, người khuyết tật.

Cụ thể, tại Hà Nội điển hình là trường hợp của công viên Tuổi trẻ, vườn hoa Nguyễn Trãi và vườn hoa Hà Đông… hay tại TP.HCM là công viên Tao Đàn, công viên Bách Tùng Diệp (quận 1), công viên nước Đại Thế Giới (quận 5)…

Điều này cũng lý giải tại sao hiện nay diện tích cây xanh ở nhiều đô thị lớn tính đến cuối năm 2023 đang ở mức rất thấp (như Hà Nội là 2,06 m2/người, TP.HCM là 0,55 m2/người, thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn Việt Nam quy định 15 m2/người) và môi trường sống của 2 đô thị lớn nhất cả nước cũng luôn nằm trong ngưỡng khắc nghiệt báo động tại nhiều thời điểm trong năm.

Theo những nghiên cứu trong đề tài nghiên cứu khoa học của nhóm nghiên cứu Viện Kiến trúc quốc gia thực hiện mới đây, trước thực trạng các đô thị lớn trên phạm vi cả nước, đặc biệt như Hà Nội và TP.HCM đang trong tình trạng đô thị hóa nóng, nhà cao tầng với quy mô khối tích và chiều cao lớn phát triển mạnh trong khu vực nội đô, vai trò của các không gian công cộng đặc biệt là hệ thống vườn hoa - công viên càng được xem trọng.

Bởi đây là những không gian đóng vai trò rất lớn trong việc đảm bảo sự các yếu tố kiến trúc cảnh quan, cân bằng môi trường sống của đô thị cũng như là không gian giao lưu, sinh hoạt văn hóa cộng đồng, luyện tập thể dục thể thao, nghỉ ngơi thư giãn giúp nâng cao chất lượng đời sống thể chất và tinh thần cho người dân.

Nhiều quốc gia tiên tiến trên thế giới trong quá trình phát triển, xây dựng đô thị luôn chú trọng coi phát triển đồng bộ hệ thống không gian công cộng, đặc biệt trong đó bao gồm hệ thống vườn hoa - công viên cây xanh là một yếu tố kiên quyết để xây dựng bản sắc, thương hiệu đô thị, phát triển kinh tế đô thị, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. 

Định hướng nâng cao hiệu quả xây mới, cải tạo vườn hoa, công viên nội đô

Tin vui là đã có nhiều vườn hoa, công viên tại nhiều đô thị lớn được xây dựng và cải tạo. Tiêu biểu như tại TP Hà Nội, thực hiện Chương trình số 03-CTr/TU của Thành ủy Hà Nội nhằm chỉnh trang diện mạo đô thị, năm 2023, các quận, huyện đã hoàn thành 6 công viên, 9 vườn hoa.

Trong số này có những công viên lớn, có mức đầu tư cao như xây mới các công viên Ngọc Thụy (7,2 ha); công viên Long Biên (21,5 ha); công viên hồ điều hòa CV1 (diện tích 31,74 ha); Công viên Thiên văn học KĐTM Dương Nội (diện tích 6,7 ha). Hoàn thành cải tạo vườn hoa Diên Hồng, Tao Đàn, Ngô Quyền (quận Hoàn Kiếm), 3/5 điểm quanh hồ Trúc Bạch, Phan Đình Phùng, Hoàng Diệu, Lê Trực, vườn Hoa Vạn Xuân (quận Ba Đình)...

Tại TP.HCM, gần đây nhiều công viên, vườn hoa cũng đã được hoàn thành xây dựng và cải tạo chỉnh trang. Tiêu biểu như công viên Lê Văn Tám (quận 1), công viên bờ sông Sài Gòn, công viên trung tâm khu dân cư Vĩnh Lộc (quận 12)…

Để nhanh chóng tạo dựng hiệu quả sử dụng đối với việc xây dựng, cải tạo chỉnh trang các không gian vườn hoa, công viên đạt chuẩn, có nhiều đóng góp thiết thực hiệu quả cho đô thị và người dân, cần có một cách tiếp cận liên ngành dựa trên hệ thống các tiêu chí cần đạt được bao gồm:

(1). Về kiến trúc, cảnh quan. Cần đổi mới phương áp tiếp cận từ thiết kế quy hoạch xây mới và cải tạo chỉnh trang các vườn hoa - công viên theo các tiêu chí liên ngành bao gồm: 

- Hài hòa với không gian tổng thể chung và có sự kết nối vững chắc với văn hóa bản địa trên cơ sở phù hợp đa dạng với nhiều hình thức hoạt động văn hóa cộng đồng, đặc biệt như lễ hội truyền thống, sự kiện văn hóa lớn thu hút nhiều nhóm lứa tuổi đặc biệt là giới trẻ. Các không gian tổng thể và thành phần nêu bật được bản sắc và tính nhận diện riêng để tạo dựng tính điểm nhấn về kiến trúc cảnh quan trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị kiến trúc/ văn hóa đặc trưng cũng như tiếp thu tinh hoa văn hóa của thế giới.

Hình 2: Vườn hoa Vạn Xuân (Hà Nội) đã trở nên hoàn thiện hơn sau khi có các điều chỉnh gia tăng cây xanh mật độ cây xanh, giảm bê tông hóa và loại bỏ các góc nhọn tại nhiều hạng mục không cần thiết. (nguồn: Internet).

- Có tính bền vững và chi phí đầu tư xây dựng, cải tạo và vận hành hợp lý. Điều này chỉ có thể đạt được trên cơ sở một thiết kế quy hoạch tổ chức không gian tối ưu, ưu tiên sử dụng các vật liệu xanh - tái chế, vật liệu địa phương có độ bền cao, phù hợp với điều kiện tại chỗ. Nhưng cần hạn chế tình trạng lạm dụng bê tông hóa, cứng hóa nhiều hạng mục xây dựng, sửu dụng.

- Đạt được tính thẩm mỹ trên cơ sở sử dụng đa dạng nhiều hình thức trang trí như tranh hoành tráng, phù điêu, tượng điêu khắc, trang trí ánh sáng ngoài trời, sử dụng các vật liệu bản địa, thân thiện môi trường. Kiên quyết hạn chế chạy theo hình thức, kệch cỡm gây tốn kém và lãng phí.

- Hướng đến các giá trị xanh, sinh thái trên cơ sở ưu tiên tổ chức tối đa để gia tăng diện tích cây xanh từ tổ chức đồng bộ hệ thống cây xanh bóng mát và trang trí.

- Có công năng sử dụng đa dạng và linh hoạt, tối ưu sử dụng quỹ đất nội đô cho cùng lúc nhiều giá trị sử dụng khác nhau như: sinh hoạt văn hóa cộng đồng, vui chơi giải trí, nghỉ ngơi thư giãn, luyện tập thể thao, dịch vụ (nếu có)… Ưu tiên khuyến khích tận dụng các không gian ngầm hay tầng cao cho các chức năng phụ trợ.

Hình 3: Không gian ngầm tại công viên 23/9 (quận 1, TP.HCM) được tổ chức sử dụng cho nhiều chức năng phụ trợ như sân khấu biểu diễn nhỏ có mái che, ẩm thực (nguồn: Internet).

- Đảm bảo sự tự do tiếp cận của người dân, bao gồm các các nhóm yếu thế (trẻ em, người khuyết tật, người già) như bố trí đủ đường dốc cho xe lăn tại các vị trí tiếp cận, không có rào chắn… 

- Đảm bảo sự an toàn cho người sử dụng như: hạn chế các hố sâu/ hồ nước, các cây trồng gây dị ứng, thiết bị sử dụng gờ sắc nhọn, bố trí đủ hệ thống cảnh báo và giám sát an ninh như camera, nhà bảo vệ tại các vị trí thiết yếu…  

- Đảm bảo tính tiện nghi như bố trí đầy đủ hạ tầng thiết yếu như bãi đỗ xe, nhà vệ sinh, hệ thống chiếu sáng, thiết bị đô thị…

(2) Về cơ chế chính sách. Các đô thị cần xây dựng một kế hoạch triển khai bài bản, tháo gỡ các khó khăn như nguồn vốn, giải phóng mặt bằng, lựa chọn nhà đầu tư, lựa chọn nhà thầu thi công… kèm theo các điều khoản chế tài xử lý kiên quyết các nhà đầu tư, nhà thầu triển khai chậm tiến độ hoặc chất lượng thi công xây dựng kém.

Đẩy mạnh nghiên cứu áp dụng các hình thức xã hội hóa trong đầu tư xây dựng và quản lý vận hành dự án tạo nguồn lực và động lực mới và tiết kiệm hiệu quả trong xây mới và cải tạo chỉnh trang vườn hoa, công viên.

Việc lấy ý kiến và giám sát cộng đồng dân cư trong quá trình xây mới và cải tạo công viên, vườn hoa cần được xem là một quy trình bắt buộc, triển khai trước và sau giai đoạn thiết kế. Cụ thể, cần nghiên cứu làm rõ nhu cầu của người dân tại chỗ về nhu cầu sử dụng đối với từng không gian vườn hoa, công viên.

Tổ chức trưng bày phương án thiết kế lấy ý kiến cộng đồng để hoàn thiện hiệu quả và đồng thuận của người dân. Do tính chất phức tạp của các đồ án thiết kế loại này, vai trò của các hội đồng chuyên gia liên ngành về quy hoạch, kiến trúc, văn hóa lịch sử, quản lý phát triển đô thị… cũng cần được phát huy tối đa dưới nhiều hình thức để góp phần gia tăng hiệu quả chung.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. ThS.KTS Phạm Hoàng Phương, 03/2024, “Cải tạo nâng cấp vườn hoa, công viên cần đồng bộ nhiều tiêu chí”, Hà Nội mới
2. Đề tài cấp Bộ: Nghiên cứu KGCC trong các đô thị Việt Nam, đề xuất các giải pháp sử dụng hiệu quả KGCC trong các đô thị hiện hữu phù hợp Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia, Viện Kiến trúc quốc gia, 2023.

Kiến trúc của sự kiềm chế: Khi lựa chọn không xây dựng trở thành thiết kế

Trong một thế giới đang đối mặt với sự cạn kiệt sinh thái và bão hòa không gian, hoạt động xây dựng đã trở thành biểu tượng của cả sáng tạo lẫn tiêu dùng. Trong nhiều thập kỷ, tiến bộ kiến ​​trúc được đo lường bằng những điều mới mẻ: vật liệu mới, công nghệ mới, những tượng đài mới của tham vọng. Tuy nhiên, ngày nay, ngành kiến ​​trúc ngày càng được định hình bởi một dạng trí tuệ khác, một dạng trí tuệ coi trọng những gì đã có. Các kiến ​​trúc sư đang học được rằng làm ít hơn có thể đồng nghĩa với thiết kế nhiều hơn, và sự thay đổi này đánh dấu sự xuất hiện của cái mà người ta có thể gọi là kiến ​​trúc tiết chế: một thực hành được định nghĩa bằng sự cẩn thận, bảo trì và lựa chọn có chủ đích không xây dựng.

Bài toán kẹt xe ở TPHCM: bắt đầu từ đâu ?

Nhìn ở góc độ đô thị học, giao thông là “hệ tuần hoàn máu” của thành phố. Khi mạch máu tắc, mọi cơ quan khác suy yếu: sản xuất đình trệ, dịch vụ chậm chạp, y tế khẩn cấp bị chậm trễ, chất lượng sống suy giảm. Việc điều trị căn bệnh này không thể tiếp tục theo kiểu chắp vá – mở thêm vài làn đường, nới thêm cây cầu – mà phải xem tổng thể cấu trúc đô thị, hành vi di chuyển và mô hình quản trị giao thông.

Từ kinh nghiệm phát triển đô thị ven sông đến “trục cảnh quan sông Hồng”

Bên ngoài con đê sông Hồng, nơi ít người ngoái nhìn tới, là những xóm nhỏ nơi sinh sống từ những bước chân tha hương của biết bao phận người. Họ đến từ mọi miền, mang theo đôi bàn tay chai sần và ước vọng đổi đời, sống những ngày lam lũ quanh năm chỉ để con cái được học hành tử tế hơn họ. Có người tích cóp cả đời mới dựng được căn nhà tầng đơn sơ; có cả chục con người vẫn ở trong những phòng trọ chưa đầy mười mét vuông. Họ là những người mang cả quê hương lên Hà Nội, làm đủ thứ nghề: thợ hồ, bán hàng rong, chạy xe, làm đủ thứ nghề để chắt chiu từng đồng nuôi con ăn học. Có gia đình dành dụm mấy chục năm mới dựng được căn nhà vững chãi; nhưng cũng có hàng nghìn con người thuê trọ trong những gian phòng ẩm thấp, chỉ đủ kê chiếc giường và cái gác bếp nhỏ - để rồi sáng hôm sau lại hòa vào dòng người mưu sinh. Những xóm thợ, ngõ nhỏ ấy tồn tại trong sức sống đô thị, những con người góp phần không nhỏ cho thành phố. Không ai muốn nhếch nhác, nhưng cũng không đủ điều kiện để thay đổi. Giờ đây, khi thành phố bàn chuyện chỉnh trang, cải tạo hay di dời …thì vấn đề không chỉ nằm ở bản vẽ hay phương án đầu tư, mà nằm ở chỗ: làm thế nào để những con người đã dồn cả đời vào mảnh đất bãi ấy không bị bỏ lại phía sau trong một cuộc thay đổi quá lớn và quá nhanh.

Đô thị hoá không chỉ là mở rộng diện tích, mà là mở rộng tầm nhìn

Ba thập kỷ qua, tốc độ đô thị hóa của Việt Nam được xem là một trong những hiện tượng đáng chú ý của châu Á. Nhiều khu đô thị, dân cư, khu công nghiệp, các công trình cao tầng mọc lên theo nhu cầu phát triển kinh tế cùng sự gia tăng dân số đến với các đô thị lớn. Bên cạnh đó là một hệ quả ngày càng rõ rệt: tần suất và mức độ ngập lụt, triều cường, sạt lở gia tăng sau những đợt bão lũ vừa qua ở một số đô thị lớn như Hà Nội, TPHCM, đặc biệt là ở miền Trung và Đà Nẵng. Điều này cho thấy sự tác động không chỉ đơn thuần là do “thiên tai” mà còn biểu hiện của tính chủ động trong việc hoạch định chiến lược, kế hoạch, quy hoạch chưa sát với thực tế của quy luật tự nhiên, đất, nước, dòng chảy, biến đổi khí hậu. Bài viết này đặt ra câu hỏi: nếu ta nhìn lại các cấp độ Quy hoạch từ các chuyên ngành bằng lăng kính khoa học: vật lý - địa chất - thủy văn - sinh thái, liệu có thể rút ra nguyên lý để giúp chúng ta sống hài hòa hơn với thiên nhiên và giảm thiểu rủi ro ?

Thiết kế an toàn: Cách các kiến ​​trúc sư và giám định pháp y suy nghĩ lại về an ninh trên mọi quy mô

Nhiều thập kỷ sau sự kiện 11/9 và bạo lực hàng loạt đã gây áp lực buộc các thành phố, tại Hoa Kỳ và trên toàn cầu, phải xem xét lại ý nghĩa của "an toàn". Đó là về rào chắn, cọc tiêu, giám sát? Hay là về niềm tin, khả năng hiển thị, bằng chứng, khả năng phục hồi? Một số dự án đang đối mặt với những câu hỏi này ở nhiều quy mô khác nhau để chứng minh cách kiến ​​trúc và tư duy pháp lý có thể cùng nhau bảo vệ cộng đồng và đời sống dân sự.

Ý kiến của bạn

SunGroup
VINGROUP
Rạng Đông
Nam Group
Mây trà shan
Vinmikh