Sau cơn mưa: Phố cổ khô ráo, khu đô thị mới hóa sông

Sau cơn mưa: Phố cổ khô ráo, khu đô thị mới hóa sông

(Vietnamarchi) - Hà Nội những ngày đầu tháng Mười, mưa lớn kéo dài do ảnh hưởng hoàn lưu bão khiến nhiều tuyến phố ngập nặng. Tuy nhiên, điều khiến không ít người ngạc nhiên là: phố cổ – nơi có tuổi đời cả trăm năm, với hạ tầng “cũ kỹ” – lại thoát nước nhanh chóng, trong khi nhiều khu đô thị hiện đại, quy hoạch mới vài chục năm nay, lại chìm sâu trong biển nước. Ngập úng, nhìn bề ngoài là chuyện của thời tiết, nhưng sâu xa hơn lại là câu chuyện của tư duy quy hoạch đô thị.
16:02, 09/10/2025

Phố cổ “sống chung với mưa” – nhưng không ngập úng

Chiều muộn sau cơn mưa tầm tã, bà Lê Thị Bích (68 tuổi), chủ một cửa hàng trên phố Hàng Ngang, thong thả quét nước trước hiên nhà. Bà cười nhẹ: “Mưa thì cũng chỉ dềnh lên mặt đường 10–15 phân. Nhưng chỉ cần nửa tiếng, là sạch như chưa có chuyện gì xảy ra. Người thì gạt nước, phố thì lại khô.”

Khu vực phố cổ Hà Nội (ảnh minh họa).

Người dân phố cổ đã quá quen với nhịp điệu mưa – rút. Nhưng cái lạ là, trong khi đó, chỉ cách vài cây số – tại Trung Kính, Mỹ Đình, Lê Văn Lương, Nam Từ Liêm – nhiều tuyến đường ngập sâu tới yên xe máy, nước đen ngòm tràn vào nhà, giao thông hỗn loạn, phải mất đến 2–3 ngày sau mới tạm ổn.

“Ở Mỹ Đình, mưa xong biết ngay chỗ nào có dốc vì xe máy sẽ tự trôi,” anh Vũ Minh Tuấn, một cư dân tại khu đô thị Keangnam hài hước nói. “Còn ở phố cổ – trông thế mà hay, cũ kỹ mà lại ‘thông minh’.”

Khu vực quảng trường trước Sân vận động Mỹ Đình chìm trong biển nước, nhiều xe máy và ô tô ngập đến yên.

Theo Tiến sĩ Tô Văn Trường, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, chuyên gia độc lập về tài nguyên nước và môi trường, nguyên nhân của nghịch lý này nằm ở tư duy quy hoạch hiện đại đã vô tình “phản tự nhiên”:

“Ngập lụt ở Hà Nội không đơn thuần là chuyện lượng mưa. Cái chính là cách quy hoạch hiện tại đang phủ kín toàn bộ đất bằng bê tông, san nền bằng mọi giá, lấp ao hồ, chôn kênh mương, khiến nước không còn đường đi.”

Trong khi đó, hệ thống thoát nước cổ của Hà Nội được người Pháp thiết kế từ đầu thế kỷ 20, đến nay vẫn hoạt động bền bỉ. Họ không có công nghệ cao, không ống cống xi măng, không máy bơm công suất lớn, nhưng lại có triết lý quy hoạch "thuận thiên" – tôn trọng địa hình và dòng chảy.

Quay lại hơn 100 năm trước, người Pháp đã đặt cốt nền đô thị dựa trên mực nước chuẩn 0-0, từ đó chọn vùng đất cao để xây dựng đường phố, còn các vùng trũng được giữ lại làm ao hồ, hồ điều hòa.

Từng con phố trong khu phố cổ đều có độ dốc tự nhiên để nước mưa thoát đi theo rãnh hai bên, đổ vào hệ thống cống ngầm bằng gạch nung, dẫn ra các hồ lớn như Hoàn Kiếm, hồ Tây, Ba Mẫu, Bảy Mẫu, sông Tô Lịch, và sông Hồng.

“Họ để nước đi theo cách của nước, có lối thoát từ mọi hướng. Nếu một hướng bị ‘khóa nước’, thì hướng khác vẫn lưu thông. Đó là tư duy đa nguồn, đa hướng – giống như cái chảo có nhiều lỗ thoát,” TS. Trường phân tích.

Kết quả: hệ thống này – dù đã hơn một thế kỷ – vẫn giúp phố cổ không bị ‘ngập tới cổ’ mỗi khi mưa xuống.

Ngược lại, các khu đô thị mới mọc lên ồ ạt những thập niên gần đây lại san lấp toàn bộ địa hình, kể cả hồ tự nhiên, kênh mương truyền thống. Mặt đường, vỉa hè, mái nhà – tất cả đều bị bịt kín bằng bê tông và đá lát, không còn chỗ cho nước thấm.

Hệ thống cống được thiết kế theo kiểu "gom về một mối" – mọi dòng chảy đều đổ vào vài tuyến chính. Khi trời mưa lớn, nước mưa đổ dồn từ tất cả các mặt phẳng kín xuống hệ thống thoát, gây quá tải ngay lập tức.

“Thiết kế này giống như một cái bát úp. Khi đầy, không có chỗ thoát phụ, thì đành ngập từ trong ra ngoài.” – TS. Trường nhận định.

Nhiều kỹ sư hạ tầng cho biết, hệ thống cống ở các khu mới không yếu, nhưng lại thiếu kết nối đồng bộ với hệ thống chung của thành phố. Mỗi khu là một “hệ sinh thái riêng”, do một chủ đầu tư phụ trách, mạnh ai nấy làm.

“Chưa kể nhiều cửa xả còn đặt thấp hơn mực nước sông hoặc hồ điều hòa. Trời mưa, nước không thoát ra được mà còn dội ngược trở lại, gây ngập ngay cả khi cống... không tắc,” một kỹ sư đô thị giấu tên chia sẻ.

Khu vực quảng trường trước SVĐ Mỹ Đình.

Khác với phố cổ – nơi vẫn giữ được giếng trời, sân trong, mặt gạch thoáng nước, thì khu đô thị mới như bị bọc nilon” từ trên xuống dưới.

“Nước mưa không có lấy một chỗ để thấm, mọi thứ đổ hết xuống cống. Cả nghìn mét khối nước mưa cần được xử lý trong vòng vài phút. Dù cống có lớn đến đâu cũng khó mà chịu nổi,” TS. Trường nói thêm.

Câu chuyện ngập lụt, vì thế, không còn là câu chuyện kỹ thuật – mà là câu chuyện về tư duy và tầm nhìn trong quy hoạch.

Muốn chống ngập, không thể làm “chắp vá”

Không ít người dân, thậm chí cả giới chuyên môn, đã ví von các khu đô thị mới ở Hà Nội như “những chiếc hộp bọc nilon” – nơi mà từ mái nhà, tường, vỉa hè cho đến mặt đường đều không cho nước thấm. Khi mưa xuống, toàn bộ lượng nước mưa khổng lồ không có lối thấm tự nhiên mà dồn ập xuống hệ thống cống – vốn chỉ chịu được tải nhỏ. Dù có đầu tư cống to đến mấy cũng không đủ.

Một kỹ sư hạ tầng chia sẻ thẳng thắn: “Vấn đề không phải hệ thống cống yếu, mà là nó không kết nối đồng bộ. Mỗi khu đô thị mới lại như một ốc đảo riêng – mạnh ai nấy làm. Nước chỉ cần ra khỏi phạm vi khu tôi phụ trách là xong, còn lại là việc của thành phố.”

Khu đô thị Ciputra – từ biểu tượng của lối sống thượng lưu đến thực tế “ngập lụt” sau mỗi trận mưa lớn.

Theo Tiến sĩ Thân Đình Vinh – Trưởng Bộ môn, Khoa Đô thị, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, Tình trạng ngập ở Hà Nội nói riêng và các khu vực đô thị hóa khác nói chung có nhiều nguyên nhân nhưng trong đó phải kể đến là biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan mưa với cường độ lớn hơn trong một khoảng thời gian, thời gian mưa có những trận kéo dài hơn những trận mưa tính toán. Vấn đề này đặt ra bài toán cần phải điều chỉnh lại các công thức thực nghiệm tính toán thủy lực thoát nước mưa.

“Hiện nay chỉ trong một ngày lượng mưa có thể tăng gấp đôi so với trước đây, trong khi hệ thống thoát nước của chúng ta được tính toán dựa trên công thức tính toán thủy lực thoát nước với các tham số A, n, C, b cũ trước đây chưa được cập nhật lại theo đặc điểm khí hậu từng vùng hiện nay. Khi lượng nước đổ về cùng lúc quá lớn, hệ thống cũ sẽ không thể đáp ứng được là điều cũng dễ hiểu” TS. Vinh phân tích.

Cùng với đó, các hồ điều hòa tự nhiên, các khu vực nông nghiệp trước đây đóng vai trò – “tạo thế cân bằng hệ sinh thái” – thì nay đã bị san lấp, thu hẹp khá nhiều. Đô thị hóa, diện tích bê tông hóa tăng nhanh ngăn cản nước mưa thấm xuống đất và dâng cao trên bề mặt gây ngập cục bộ chỉ sau vài tiếng mưa lớn.

Tiến sĩ Thân Đình Vinh – Trưởng Bộ môn, Khoa Đô thị, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội.

“Trước đây, Hà Nội có nhiều hồ và các khu vực canh tác nông nghiệp khả năng điều tiết thoát nước tốt hơn. Giờ hồ bị lấp đi nhiều, mưa xuống thiếu không gian chứa, không gian điều hòa, trong khi hạ tầng thoát nước chưa được bảo dưỡng, duy trì nạo vét, khơi thông thường xuyên. Hệ thống nước mưa và nước thải nhiều khu vực vẫn chung một đường ống, khiến khi mưa lớn, nước không thể rút kịp do lượng bùn lắng, lá cây, rác làm giảm năng lực tiêu thoát đường ống” ông Vinh nhấn mạnh.

Nhìn lại quá trình phát triển đô thị, TS. Vinh cho rằng phố cổ Hà Nội là ví dụ điển hình cho một quy hoạch có tầm nhìn. Khu vực này được người Pháp xây dựng với cao độ nền cao, với nhiều hồ điều hòa được giữ lại và hệ thống thoát nước đa số được thiết kế tách biệt, đồng bộ, công tác vệ sinh đường phố sạch sẽ hơn, cống rãnh ít rác và bùn cặn hơn nên năng lực tiêu thoát đường ống tốt hơn.

“Trong khi đó, nhiều khu đô thị mới hiện nay lại nằm ở vùng trũng và đã số nâng cao độ từ khu vực canh tác nông nghiệp, quy hoạch chưa tính toán đến chỉ tiêu đất dành cho các không gian hồ điều hòa, không gian bán ngập, không gian nông nghiệp là nơi có thể chứa nước tạm thời khi mưa lớn đổ xuống như một tiêu chí bắt buộc và cần phải đưa vào các quy định về thoát nước bền vững. Bề mặt các khu đô thị mới hiện nay đa số bị bê tông hóa, thiếu các không gian chứa nước, bổ cập nước ngầm, tăng hệ số thấm, các giải pháp thoát nước bền vững gần như chưa được áp dụng như một quy định bắt buộc” TS. Vinh nhận định.

Ông nhấn mạnh, trong quy hoạch đô thị tương lai, Hà Nội cần phải đưa chỉ tiêu đất dành cho các không gian hồ điều hòa, không gian bán ngập, không gian nông nghiệp, áp dụng các giải pháp thoát nước bền vững phải là bắt buộc. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ mô phỏng để quy hoạch cao độ nền và tổ chức thoát nước phải trở thành bắt buộc cho mọi đồ án quy hoạch mới.

“Thoát nước bền vững không chỉ là vấn đề kỹ thuật, mà là câu chuyện của tư duy đô thị có tầm nhìn dài hạn. Nếu tiếp tục phát triển đô thị theo hướng bê tông hóa cực đoan, không gian xanh bị thu hẹp, Hà Nội sẽ mãi luẩn quẩn trong vòng lặp ngập – bơm – rút – ngập mà cần tìm ra NGƯỠNG chịu tải của hệ thống thoát nước và tìm lời giải từ các giải pháp mở rộng không gian chứa, thấm, thoát nước bền vững như các nước phát triển đã làm nếu vượt ngưỡng” ông nói.

Hướng tới đô thị bền vững – sống cùng nước, không chống nước

Các chuyên gia đô thị đều đồng tình rằng, Hà Nội cần chuyển hướng từ tư duy “thoát hết nước ra sông” sang tư duy “sống chung với nước – giống như các đô thị tiên tiến trên thế giới. Giải pháp có thể là xây dựng hồ ngầm, công viên trữ nước, vật liệu thấm nước và mái xanh đô thị, đồng thời duy trì hồ, kênh mương hiện có như một phần cấu trúc sinh thái của thành phố.

Thủ đô Hà Nội hướng đến phát triển đô thị bền vững, hạn chế tình trạng ngập lụt kéo dài sau mưa lớn.

Những cơn mưa cực đoan sẽ ngày càng nhiều hơn, nhưng nếu quy hoạch đô thị có tầm nhìn, cập nhật dữ liệu khí hậu, và đầu tư đồng bộ cho hạ tầng thoát nước, Hà Nội hoàn toàn có thể vừa phát triển, vừa an toàn trước thiên tai. Sau trận lũ lịch sử 2008, chúng ta đã có rất nhiều báo cáo, kế hoạch. Nhưng hơn một thập kỷ trôi qua, hạ tầng thoát nước của Hà Nội vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, đặc biệt là khi đối mặt với các trận mưa cực đoan do biến đổi khí hậu.”

Nhưng để chống ngập triệt để, các chuyên gia đều thống nhất rằng Hà Nội cần một chiến lược thoát nước bền vững, không chắp vá, không chỉ dựa vào các biện pháp tình thế như bơm nước hay nạo vét cống.

Trận mưa lớn cuối đầu tháng 10 không chỉ là một hiện tượng thời tiết cực đoan – mà là một lời cảnh tỉnh nghiêm khắc về tư duy quy hoạch. Đã đến lúc Hà Nội và nhiều đô thị khác trên cả nước phải nhìn nhận lại cách chúng ta xây dựng và phát triển không gian sống.

Không thể tiếp tục lấp hồ, lấp ao, phủ kín mặt đất bằng bê tông rồi lại than ngập. Không thể cứ xây nhà cao, đường rộng mà bỏ quên những dòng nước ngầm. Phố cổ – nơi tưởng như “lạc hậu” – đang cho thấy mình “tiên tiến” hơn nhiều khu đô thị mới, chỉ vì nó hiểu và tôn trọng tự nhiên.

Quy hoạch không thể đi ngược lại dòng chảy của nước. Bởi nước – một khi không được tôn trọng – sẽ tìm mọi cách để quay lại, và nhấn chìm tất cả./.

6 giải pháp cấp bách để Hà Nội “sống chung với nước” một cách thông minh:

1.      Phục hồi các hồ ao, kênh mương truyền thống. Không được tiếp tục san lấp để lấy đất.

2.      Tách riêng hệ thống thoát nước mưa và nước thải. Tránh quá tải trong mùa mưa lớn.

3.      Bắt buộc các khu đô thị mới phải có hồ điều hòa, bể chứa riêng. Không phụ thuộc mạng lưới chung.

4.      Lát vỉa hè, mặt đường bằng vật liệu thấm nước. Tạo điều kiện cho nước ngấm xuống đất.

5.      Quy định tỷ lệ đất thấm trong công trình xây dựng. Bắt buộc trong quy trình cấp phép.

6.      Xây dựng bản đồ thoát nước tổng thể, kết nối toàn thành phố. Tránh tình trạng "nước ra khỏi khu tôi là xong".

Đô thị hoá không chỉ là mở rộng diện tích, mà là mở rộng tầm nhìn

Ba thập kỷ qua, tốc độ đô thị hóa của Việt Nam được xem là một trong những hiện tượng đáng chú ý của châu Á. Nhiều khu đô thị, dân cư, khu công nghiệp, các công trình cao tầng mọc lên theo nhu cầu phát triển kinh tế cùng sự gia tăng dân số đến với các đô thị lớn. Bên cạnh đó là một hệ quả ngày càng rõ rệt: tần suất và mức độ ngập lụt, triều cường, sạt lở gia tăng sau những đợt bão lũ vừa qua ở một số đô thị lớn như Hà Nội, TPHCM, đặc biệt là ở miền Trung và Đà Nẵng. Điều này cho thấy sự tác động không chỉ đơn thuần là do “thiên tai” mà còn biểu hiện của tính chủ động trong việc hoạch định chiến lược, kế hoạch, quy hoạch chưa sát với thực tế của quy luật tự nhiên, đất, nước, dòng chảy, biến đổi khí hậu. Bài viết này đặt ra câu hỏi: nếu ta nhìn lại các cấp độ Quy hoạch từ các chuyên ngành bằng lăng kính khoa học: vật lý - địa chất - thủy văn - sinh thái, liệu có thể rút ra nguyên lý để giúp chúng ta sống hài hòa hơn với thiên nhiên và giảm thiểu rủi ro ?

Thiết kế an toàn: Cách các kiến ​​trúc sư và giám định pháp y suy nghĩ lại về an ninh trên mọi quy mô

Nhiều thập kỷ sau sự kiện 11/9 và bạo lực hàng loạt đã gây áp lực buộc các thành phố, tại Hoa Kỳ và trên toàn cầu, phải xem xét lại ý nghĩa của "an toàn". Đó là về rào chắn, cọc tiêu, giám sát? Hay là về niềm tin, khả năng hiển thị, bằng chứng, khả năng phục hồi? Một số dự án đang đối mặt với những câu hỏi này ở nhiều quy mô khác nhau để chứng minh cách kiến ​​trúc và tư duy pháp lý có thể cùng nhau bảo vệ cộng đồng và đời sống dân sự.

Cách vẽ không gian đô thị bằng dữ liệu

Khoa học Đô thị, một ngành nghề đang phát triển nhanh chóng, là nghiên cứu khoa học và kỹ thuật về các hệ thống đô thị. Ngành này sử dụng công nghệ tiên tiến, dữ liệu lớn và vật lý hệ thống phức tạp để giải quyết các thách thức như giảm phát thải carbon, di chuyển và khả năng sinh sống. Về cốt lõi, khoa học đô thị tập trung vào các giải pháp dựa trên dữ liệu. Ngành này sử dụng thống kê, mô hình hóa và trí tuệ nhân tạo để khám phá những động lực tiềm ẩn của các thành phố, từ việc sử dụng năng lượng đến di chuyển của con người. Ngành này áp dụng các chiến lược giảm phát thải carbon, nâng cao hiệu quả và thúc đẩy môi trường đô thị bền vững và linh hoạt hơn.

Hiện tượng ánh sáng trong kiến ​​trúc tôn giáo đương đại

Tầm quan trọng của ánh sáng ban ngày trong không gian vượt xa chức năng chiếu sáng của nó. Ánh sáng là một công cụ sáng tạo được các kiến ​​trúc sư vận dụng để thổi hồn siêu hình vào không gian, tác động đến trạng thái cảm xúc của người sử dụng. Với tác động hiện tượng lên tâm lý con người, ánh sáng và bóng tối đã được vận dụng để khơi gợi cảm giác thần thánh và tâm linh vào đặc điểm của các công trình tôn giáo. Sự tương tác giữa kiến ​​trúc và ánh sáng là một sức mạnh mạnh mẽ, định hình nên trải nghiệm tâm linh sâu sắc hơn.

Thành phố tương lai: Từ thành phố rạng rỡ của Le Corbusier đến "Thành phố thở 2050" của Hà Lan

Trong suốt chiều dài lịch sử, những nhà cải cách tôn giáo và những kiến ​​trúc sư có tầm nhìn xa đã cố gắng hình dung về tương lai của các thành phố: từ mô hình thành phố Palmanova theo phong cách Venice đến khu phức hợp nhà ở nhiều tầng dành cho 5.000 người do kiến ​​trúc sư người Ý Paolo Soleri thiết kế, từ Broadacre City của Frank Lloyd Wright đến Radiant City của Le Corbusier, rất nhiều bản quy hoạch tổng thể đã được xây dựng để minh họa cho một số tham vọng chưa từng có tiền lệ.

Ý kiến của bạn

SunGroup
VINGROUP
Rạng Đông
Nam Group
Hưng Thịnh Land
Vinmikh