Phát triển công viên rừng trong cấu trúc đô thị hiện đại

Phát triển công viên rừng trong cấu trúc đô thị hiện đại

(Vietnamarchi) - (KTVN 250) Công viên rừng trong các đô thị trên thế giới đã tồn tại từ lâu. Nó có thể xuất phát từ những những khoảng rừng tự nhiên còn xót lại trong quá trình phát triển đô thị bởi nhiều lý do khác nhau; từ quyền sở hữu đất hay thú chơi của các nhà quý tộc với các lâu đài hay những cánh rừng bao quanh nó; hoặc từ những công viên tự nhiên hay được chăm tỉa với những bộ sưu tập cây, con đa dạng…Trải qua nhiều năm tồn tại chúng đã phát triển như một cánh rừng, tạo ra phong cảnh, nét chơi tao nhã ấn tượng, đặc sắc.
14:15, 02/05/2024

Và giờ đây chúng được tiếp tục tồn tại bởi những giá trị có một không hai trong lòng các đô thị đã có tuổi đời thuộc các giai đoạn cổ, trung hoặc cận đại, nhất là ở khu vực Châu Âu, Bắc Mỹ hay trong không gian thành quách của các vị vua chúa Châu Á. Công viên rừng trong các đô thị có nhiều dạng, nhiều hình thái, nhiều quy mô khác nhau (từ vài chục đến hàng trăm, thậm chí hàng nghìn hecta); vị trí có thể ngay trong lòng đô thị, vùng ven hay có một khoảng cách nhất định tính từ trung tâm đô thị.

Nhận thức về công viên rừng trong đô thị

Công viên rừng trong các đô thị trên thế giới đã tồn tại từ lâu. Nó có thể xuất phát từ những những khoảng rừng tự nhiên còn xót lại trong quá trình phát triển đô thị bởi nhiều lý do khác nhau; từ quyền sở hữu đất hay thú chơi của các nhà quý tộc với các lâu đài hay những cánh rừng bao quanh nó; hoặc từ những công viên tự nhiên hay được chăm tỉa với những bộ sưu tập cây, con đa dạng…Trải qua nhiều năm tồn tại chúng đã phát triển như một cánh rừng, tạo ra phong cảnh, nét chơi tao nhã ấn tượng, đặc sắc. Và giờ đây chúng được tiếp tục tồn tại bởi những giá trị có một không hai trong lòng các đô thị đã có tuổi đời thuộc các giai đoạn cổ, trung hoặc cận đại, nhất là ở khu vực Châu Âu, Bắc Mỹ hay trong không gian thành quách của các vị vua chúa Châu Á. Công viên rừng trong các đô thị có nhiều dạng, nhiều hình thái, nhiều quy mô khác nhau (từ vài chục đến hàng trăm, thậm chí hàng nghìn hecta); vị trí có thể ngay trong lòng đô thị, vùng ven hay có một khoảng cách nhất định tính từ trung tâm đô thị.

Cũng có thể trong tư duy của các nhà quy hoạch phát triển đô thị sau này, để kế thừa các giá trị của các công viên rừng họ cũng mạnh dạn giữ lại những không gian rông lớn để phát triển mô hình này giữa lòng đô thị. Ví như Công viên trung tâm New York (Mỹ), Di Hòa Viên hay Cung điện Mùa hè (Thành phố Bắc Kinh, Trung Quốc), Công viên Đại Quan (Thành phố Côn Minh, Trung Quốc), hay triết lý xuyên xuốt về một đô thị xanh của các nhà quy hoạch phát triển đô thị Sinapore sau này.

Hiểu một cách đơn giản “công viên rừng” không có nghĩa đó phải là một khu rừng thực thụ. Nó có thể là một không gian tự nhiên, nơi có điều kiện địa hình, cảnh quan đẹp, môi trường sinh thái hấp dẫn, nơi con người có thể tác động ít nhiều, có thể bổ sung, hoàn chỉnh nó theo mong muốn, theo yêu cầu sử dụng của mình để biến nó trở thành một công viên rừng, một điểm đến lý tưởng trong cấu trúc đô thị.

Mặt khác, theo nhiều nghiên cứu, để chỉ ra yếu tố “rừng” trong đô thị, đã có những nghiên cứu sâu về hệ thống “không gian xanh” trong đô thị. Hệ thống này bao gồm vườn cây (gardens), công viên (parks), cây xanh đường phố... Tuy nhiên, nếu “không gian xanh” chỉ được hiểu như vậy là chưa đầy đủ, trong nhiều tài liệu “không gian xanh” còn được gọi là “không gian mở” (open spaces) với các yếu tố cấu thành rộng hơn ngoài vườn cây, công viên còn có hệ thống cấu trúc xanh tự nhiên trong đô thị như mặt nước (sông, hồ), thảm cây xanh tự nhiên, đồi núi, cánh đồng, hành lang xanh, vàng đai xanh, nêm xanh...trong các đô thị lớn hay vùng đô thị... Theo thông tư 06/2013/TT-BXD về Hướng dẫn nội dung thiết kế đô thị: “không gian xanh của đô thị gồm vành đai xanh, HLX, tuyến xanh, mạng xanh, nêm xanh, công viên hoặc rừng tự nhiên, nhân tạo trong đô thị”. “Không gian xanh” được phân loại theo quan điểm sinh thái chia làm 3 loại: loại I: Không gian xanh tự nhiên, loại II: Không gian xanh bán tự nhiên và loại III: Không gian xanh nhân tạo.

Với cách lập luận trên, “không gian xanh” có thể chứa dựng các thành phần tạo nên yếu tố “rừng” trong đô thị. Từ đó cho rằng “công viên rừng” thuộc hệ thống “không gian xanh” trong cấu trúc đô thị phát triển. “Công viên rừng” cũng có thể gồm 03 loại: “Công viên rừng” tự nhiên, bán tự nhiên và “Công viên rừng” nhân tạo. Suy cho cùng, “Không gian xanh”, hay “Công viên rừng” đều nhắm tới việc cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường sống, văn hoá, giáo dục, thẩm mỹ, lòng tự hào, tình yêu của người dân đối với đô thị của họ. Sự khác nhau chỉ ở tên gọi, phân loại, cách quy hoạch và sử dụng.

Về khái niệm “Công viên rừng” hay “Rừng” trong đô thị?

Dưới đây là một số hình ảnh minh hoạ để cùng nhận thức đầy đủ và đồng thuận hơn về khái niệm “Công viên rừng” hay “Rừng” trong đô thị.

Di Hòa Viên:  Nằm cách trung tâm thành phố Bắc Kinh khoảng 15 km, có diện tích 290 hecta, được xây dựng từ thời nhà Thanh, Di Hòa Viên được biết đến với nghệ thuật lâm viên (vườn hoàng gia) có quy mô đầu tư lớn nhất Trung Quốc. Tất cả các yếu tố kiến trúc và cảnh quan được bài trí đều tinh tế, hoàn hảo và tuân thủ theo quy luật phong thủy một cách nghiêm ngặt. Năm 1998, Di Hòa Viên chính thức được UNESCO công nhận là “Di tích lịch sử thế giới”.

Di Hòa Viên (Bắc Kinh, Trung Quốc)

Công viên trung tâm New York: Nằm giữa lòng thành phố Manhattan (Mỹ) có diện tích lên đến hơn 341 ha, được xây dựng năm 1858 và hoàn thành năm 1873 công viên là một trong những công viên nổi tiếng nhất trên thế giới. Công viên trung tâm New York đã trở thành nơi lưu giữ nhiều loài động thực vật có giá trị; Nơi con người có thể hoà mình vào thiên nhiên một cách thân thiện, thoải mái; Một địa điểm du lịch hấp dẫn với nhiều hoạt động thú vị và đa dạng.

Công viên trung tâm New York (Mỹ)

Bois de Boulogne, Có diện tích rộng 845 hecta, Bois de Boulogne là công viên rộng thứ hai của nước Pháp. Công viên được xây dựng trong giai đoạn 1852 đến 1858 dưới thời Hoàng đế Napoleon. Ngoài hệ thống thực vật phong phú, công viên còn sở hữu nhiều hồ và thác nước.

Bois de Boulogne  (Pháp)

Ueno (Tokyo, Nhật Bản): Là một trong những công viên lịch sử và lớn nhất ở Tokyo, nơi có hệ động, thực vật phong phú, các đền thờ cổ xưa và một số bảo tàng hấp dẫn. Vào mỗi mùa xuân, công viên lại tổ chức lễ hội hoa anh đào để du khách có thể đi bộ qua những con đường phủ đầy những tán hoa màu hồng diễm lệ.

Ueno (Tokyo, Nhật Bản)

Hyde Park: Có diện tích 142 hecta, nằm tại trung tâm London (Vương quốc Anh), là công viên rộng lớn nhất thành phố với nhiều di tích kiến trúc lịch sử lâu đời của các triều đại Hoàng gia, với nhiều màu sắc và hương thơm ngào ngạt từ các loại thực vật có trong công viên. Những sự kiện âm nhạc, lễ hội… cũng thường xuyên được tổ chức ở đây.

Hyde Park (London, Anh)

English Garden: Là công viên trong lòng thành phố lớn nhất Châu Âu, với diện tích trải dài lên tới 3.7km2, được xây dựng từ những năm 1700 ở Munich (Đức). Công viên nổi bật với vườn thực vật Berlin (Botanischer Garten Berlin), mục đích chính là phục vụ khoa học...

English Garden (Munich, Đức)

Singapore: là một trong những thành phố xanh nhất thế giới. Người Singapore từ lâu đã có ý nghiêm túc về vai trò của không gian xanh trong đô thị. Singapore chính là mô hình thực tế của đô thị xanh, trong nhà có vườn cây, trong thành phố có rừng.

Một góc phố Singapore
Gardens by the Bay

Đặc biệt Gardens by the Bay với điểm nhấn là hệ thống cây năng lượng nhân tạo cao tới 54m, có thể tạo ra năng lượng từ ánh sáng mặt trời, thông hơi cho các tòa nhà gần đó và hứng nước mưa, là một trong những dấu ấn quan trọng của Singapore trong triết lý đô thị xanh.

Công viên rừng trong đô thị ở Việt Nam

Công viên bách thảo Hà Nội  
 Thảo cầm viên TPHCM

Ở Việt Nam khái niệm công viên rừng tưởng chừng còn xa lạ, mới mẻ, nhưng thực tế không hẳn vậy. Bản thân quá trình phát triển, trong cấu trúc đô thị Việt Nam đã tồn tại ít nhiều dạng công viên này. Ví như không gian các vườn thượng uyển nằm trong cung điện, đền đài, lăng tẩm của các vị vua chúa thời Nguyễn (Kinh thành Thăng Long, Kinh thành Huế), hay các dạng công viên kết hợp vườn thú như công viên bách thảo Hà Nội, Thảo cầm viên Thành phố Hồ Chí Minh trong cấu trúc đô thị cận đại.

Hệ thống “Không gian xanh” trong các đô thị Việt Nam cũng đã góp phần tạo nên yếu tố “rừng” độc đáo. Trong đó, hệ thống “Không gian xanh” tại Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh hay Đà Lạt, Sa Pa...đều có những nét riêng, không thể trộn lẫn.

Thủ đô Hà Nội sau khi mở rộng (năm 2008) đã ôm trọn trong mình một hệ thống “Không gian xanh” độc đáo có giá trị. Khu vực vườn Quốc gia Ba Vì, Hương Tích, Sóc Sơn, hành lang xanh sông Đáy, vành đai xanh sông Nhuệ, các nêm xanh, vườn hoa, công viên, mặt nước sông, hồ...chiếm khoảng 70% diện tích tự nhiên toàn thành phố...đã cho ta một cái nhìn tổng thể về một Hà Nội xanh, yếu tố “rừng” có trong cấu trúc đô thị. Vườn Quốc gia Ba Vì, khu di tích danh thắng Hương tích, khu cảnh quan Sóc Sơn...của Thủ đô Hà Nội; vườn sinh quyển Cần Giờ của Thành phố Hồ Chí Minh...có lẽ nào không xứng danh là các “công viên rừng” đình đám, có thương hiệu nổi bật của hai thành phố này ?

Bên cạnh đó, dọc theo hành lang, bãi bồi các con sông của hai thành phố này như sông Sài Gòn, sông Hồng, sông Đuống...cũng mang trong mình nó các tiềm năng, lợi thế để bổ sung vào hệ thống “Không gian xanh” những giá trị mới trong quá trình phát triển của mình. Một ví dụ điến hình cho mô hình “công viên rừng” nhân tạo tại bãi nổi sông Hồng là dự án công viên rừng trên địa bàn phường Chương Dương, hay công viên rừng tại phường Phúc Tân (quận Hoàn Kiếm, Hà Nội).

Trong khu vực hành lang xanh sông Đáy, vành đai xanh sông Nhuệ...của Thủ đô Hà Nội hiện còn nhiều dư địa để phát triển mô hình “Công viên rừng” bán tự nhiên và “Công viên rừng” nhân tạo. Việc nghiên cứu các giải pháp Tổ chức không gian hành lang xanh phía Tây Hà Nội về chức năng và cấu trúc theo khung chủ đề, tổ chức không gian tổng thể và thành phần, các chỉ tiêu qui hoạch cơ bản (sử dụng đất, hạ tầng, không gian cảnh quan) và tổ chức thực hiện theo quy hoạch của Nghiên cứu sinh Phạm Thị Nhâm (Viện Quy hoạch Đô thị Nông thôn Quốc gia - BXD) tạo cơ hội chỉ ra “khung chủ đề” không gian xanh tự nhiên và nông nghiệp (một trong năm khung chủ đề chính của hành lang xanh)...mà ở đó có tiềm năng, lợi thế để người Hà Nội phát triển mô hình “Công viên rừng” bán tự nhiên và “Công viên rừng” nhân tạo...gắn với bảo tồn phát huy giá trị văn hoá truyền thống Thăng Long, Xứ Đoài xưa...

Thay cho lời kết

Việc quy hoạch tạo nên một hệ thống “Không gian xanh” - lá phổi xanh cho đô thị có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình đô thị hoá, biến đổi khí hậu trên thế giưới trong đó có Việt nam không chỉ tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội mà còn là điều kiện quan trọng để tạo nên một đô thị phát triển bền vững. Công viên, vườn hoa...được hiểu đều nằm trong hệ thống “Không gian xanh” đô thị. Suy cho cùng, “Không gian xanh”, hay “Công viên rừng” đều có mối quan hệ biện chứng ở nhiều lĩnh vực, nhiều khía cạnh và đều nhắm tới việc cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường sống, văn hoá, giáo dục của đô thị. Đồng thời, tạo ra sự khác biệt trong xây dựng biểu tượng, thương hiệu của từng đô thị khi yếu tố cạnh tranh mang tính toàn cầu đang rất cao.

Tài liệu tham khảo:

- Những công viên nên khám phá và trải nghiệm khi tới Paris/Báo Mới

- Công viên trung tâm New York - Điểm đến không thể bỏ qua/ Nguyễn Thụy Mộc Nhiên

- 10 công viên quốc gia ở châu Âu khiến bạn phải sững sờ vì quá đẹp/ Hữu Nguyên

- Hanoimoi.vn

- Trang Travel Japan; Traveloka…

- Thông tư 06/2013/TT-BXD về Hướng dẫn nội dung thiết kế đô thị

- NGHIÊN CỨU, XÂY DỰNG MÔ HÌNH KHÔNG GIAN XANH (KgX) NHẰM GIẢM NHẸ PHÁT THẢI KHÍ NHÀ KÍNH (KNK) TRONG ĐÔ THỊ, ÁP DỤNG THÍ ĐIỂM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ ĐÀ NẴNG/Đề tài NCKH cấp Bộ/Trường Đại học Văn Lang TP Hồ Chí Minh

Pháp lý xây dựng

Tài nguyên kinh tế du lịch di sản từ thương hiệu đô thị di sản thiên niên kỷ và những gợi ý nghiên cứu tiềm năng

Giá trị tiềm năng chỉ riêng cho kinh tế du lịch di sản của tỉnh Ninh Bình tính theo công thức của Noonan-2003 tổng hợp từ 129 địa điểm nghiên cứu để tính thử: Hàng năm có từ 5-7 triệu lượt khách du lịch/năm x 42.78 USD (sẵn lòng chi trả du lịch/người) = 192 triệu đến 300 triệu USD/năm; Nếu tính biến (t) theo thời gian, chẳng hạn sau 10 năm, thì Giá trị tiềm năng du lịch di sản của Ninh Bình có thể lên tới hơn 3 tỷ USD/năm - Khoảng 75 ngàn tỷ/năm (Hà Nội hiện nay là 62.000 tỷ/năm). Nếu lựa chọn định hướng phát triển Đô thị di sản thiên niên kỷ - biểu tượng duy nhất ở VN thì tiềm năng chi trả du lịch của du khách có thể lên đến 12 tỷ USD/năm.

Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Ninh Bình, tại sao không?

Trên thế giới có khá nhiều địa danh vừa là Di sản Thế giới (DSTG) lại vừa là Công viên Địa chất Toàn cầu (CVĐCTC) UNESCO, thậm chí có khi lại còn cả Khu dự trữ Sinh quyền Thế giới (DTSQ), tất nhiên chỉ khác biệt ít nhiều về ranh giới. Có thể kể đến một số ví dụ tiêu biểu, như Ngorongoro (Tanzania) hay đảo Jeju (Hàn Quốc), vừa là DSTG, DTSQ, đồng thời cũng là CVĐCTC UNESCO. Đảo Jeju (Hàn Quốc) - thường được mệnh danh là Nữ hoàng ba vương miện - có lẽ là ví dụ điển hình nhất, với DSTG ở vùng trung tâm, mở rộng dần gần như theo kiểu đồng tâm, lần lượt được bao quanh bởi Vườn quốc gia, DTSQ và ngoài cùng, chiếm toàn bộ đảo là CVĐCTC UNESCO. Hiện nay, tỉnh Ninh Bình đang có định hướng lớn về “Thành phố Di sản Thiên niên kỷ Hoa Lư”, kích hoạt trực tiếp ý tưởng về CVĐCTC UNESCO.

Kết nối không gian văn hóa - xã hội vùng lõi và vùng đệm danh thắng Tràng An - Hướng tới đô thị di sản vì con người

Ngày 04/3/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 218/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch tỉnh Ninh Bình thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 với mục tiêu xây dựng Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc trung ương, văn minh, hiện đại, thông mình, có bản sắc riêng, ngang tầm các đô thị di sản, thành phố sáng tạo trên thế giới, có vị thế, giá trị thương hiệu cao trong mạng lưới di sản thế giới của UNESCO. Mục tiêu này cần được tiếp cận từ góc nhìn của 3 vấn đề cơ bản là: Bối cảnh của không gian lịch sử - văn hóa kinh đô Hoa Lư xưa với phạm vi tương đương với tỉnh Ninh Bình hiện nay; Bối cảnh biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn thế giới; Xu hướng phát triển đô thị di sản đô thị sinh thái gần với phát triển du lịch bền vững.

Xây dựng cơ chế chính sách đặc thù, vượt trội cho phát triển vùng di sản Tràng An, Ninh Bình theo hướng bền vững

Cần nhận diện, định dạng cụ thể các giá trị bản sắc mang tính đặc thù, nổi trội, riêng có và lợi thế tuyệt đối của vùng Tràng An, Ninh Bình coi đó là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội của tỉnh; trên cơ sở đó đề xuất một số nhóm chính sách mang tính vượt trội, nhằm hoán chuyển các nguồn lực di sản trở thành nguồn lực để phát triển tỉnh Ninh Bình trong bối cảnh mới. 

Xây dựng đô thị di sản Hoa Lư - Nhìn từ mục tiêu thiên niên kỷ của UNESCO

Di sản - trở thành một thương hiệu, định vị định danh và tôn vinh cao cấp nhất đối với đô thị hay một nơi chốn. Với các thành phố ở Việt Nam, nơi mà quỹ di sản, di tích dày đặc, trải dài, trải rộng trong không gian và đậm đặc tính lịch sử của thời gian thì có được tôn vinh là đô thị di sản. Vậy, để định danh được nó, cần có các tiêu chí đánh giá cụ thể. Và trên thực tế các thành phố còn “lúng túng” khi xác định các tiêu chí này dễ tạo nên những mâu thuẫn trong cách ứng xử với chính di sản của mình.

Ý kiến của bạn

PHÁP LUẬT KIẾN TRÚC XÂY DỰNG – TẠP CHÍ KIẾN TRÚC VIỆT NAM
SunGroup
VINGROUP
Rạng Đông
Nam Group
Hưng Thịnh Land
Lumi