Sau bão số 3: Nhiều quy định xây dựng ngoài đê cần phải xem xét lại
Có thể bạn quan tâm
Bão số 3 khiến con người phải thay đổi cách ứng xử với thiên nhiên
Bão số 3 (Yagi) là cơn bão mạnh nhất trong 30 năm qua trên Biển Đông và trong 70 năm qua trên đất liền, với nhiều đặc điểm chưa từng có tiền lệ, là siêu bão với cường độ rất mạnh (gió giật cấp 17); sức tàn phá rất lớn; thời gian tàn phá trên đất liền và duy trì cường độ bão dài; phạm vi ảnh hưởng rất rộng, bao phủ toàn bộ 26 địa phương khu vực miền Bắc và Thanh Hóa; đối tượng chịu tác động nhiều; gây ra mưa lớn dài ngày, dẫn đến thảm họa thiên tai về lũ, sạt lở nghiêm trọng tại nhiều địa phương.
Bão số 3 đã gây thiệt hại nghiêm trọng, nặng nề về người, tài sản, cây trồng, vật nuôi, các hạ tầng kinh tế - xã hội; ảnh hưởng rất lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là sản xuất nông nghiệp, dịch vụ, du lịch. Thống kê sơ bộ đến ngày 17/9/2024, đã có 329 người chết, mất tích, khoảng 1.929 người bị thương; khoảng 234.700 căn nhà, 1.500 trường học và nhiều công trình hạ tầng bị sập đổ, hư hại; 726 sự cố đê điều; trên 307.400 ha lúa, hoa màu, cây ăn quả bị ngập úng, thiệt hại; 3.722 lồng bè nuôi trồng thủy sản bị hư hỏng, cuốn trôi; gần 3 triệu gia súc, gia cầm bị chết và gần 310.000 cây xanh đô thị bị gẫy đổ…
Tổng thiệt hại về tài sản do bão số 3 gây ra ước tính sơ bộ trên 50.000 tỷ đồng, dự báo có thể làm tốc độ tăng trưởng GDP cả năm giảm khoảng 0,15% so với kịch bản tăng trưởng đạt 6,8-7%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của nhiều địa phương như Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Lào Cai… có thể giảm trên 0,5% so với dự báo trước khi có bão số 3. Hệ thống kết cấu hạ tầng, nhiều công trình thiết yếu, dân sinh bị hư hại. Các vấn đề xã hội, nhất là y tế, giáo dục, môi trường, nước sạch nông thôn, nước sạch đô thị, lao động việc làm, đời sống người dân… cần đặc biệt quan tâm, ưu tiên nguồn lực và triển khai nhanh sau bão, lũ để ổn định đời sống người dân.
Đặc biệt, bão cũng đã gây ra tình trạng mưa lũ rất lớn khiến mực nước ở hàng loạt sông ở miền Bắc dâng cao. Một số đoạn nước tràn qua, thậm chí là vỡ… đe dọa đến tính mạng của người dân và an toàn hệ thống đê điều.
Liên quan đến vấn đề này, trao đổi với phóng viên của VOV.VN, KTS Trần Huy Ánh, Ủy viên thường vụ Hội Kiến trúc sư Hà Nội cho biết: “Cơn bão số 3 là cú sốc rất mạnh mẽ, làm thức tỉnh nhiều người, khiến chúng ta cần phải thay đổi cách ứng xử với thiên nhiên nhiều hơn nữa. Qua cơn bão cho thấy những giải pháp công nghệ cao không có ý nghĩa gì với mẹ thiên nhiên. Bão số 3 vừa là nguy nhưng cũng là an. Bão mạnh như vậy để thấy được cần phải ứng phó nghiêm túc hơn với thiên tai”.
Theo KTS Trần Huy Ánh, từ trước đến nay chúng ta thường hay xem nhẹ những dòng chảy nhỏ như sông Gâm, sông Lô, sông Thao,… vì lưu lượng nước đổ về sông thấp nhưng cơ bão số 3 gây mưa lớn cho cả phía Nam Trung Quốc, Nam sông Đà dẫn tới lượng nước đổ về vô cùng lớn. Tốc độ nước đổ về hồ Thác Bà lớn hơn năm 1971.
“Cơn bão số 3 cho thấy nếu phía bạn lũ to phải xả lũ, chúng ta không trách người ta được mà phải chủ động, cảnh giác trong ứng phó với mưa lũ. Hiện nay, tại các khu vực lòng sông đang bị thay đổi dòng chảy bởi dân cư tự phát bên ngoài đê, khai thác khoáng sản trong lòng sông tràn lan, không bền vững. Địa hình địa mạo của dòng sông biến đổi khó lường,… Có ai dám nói tương lai một cơn bão mạnh bằng hoặc lớn hơn cơn số 3 này sẽ không quay lại? Vì vậy cần nghiêm túc nhìn nhận lại để thức tỉnh. Cần phải xem xét lại quy hoạch, đặc biệt là khu vực đê sông Hồng chảy qua khu vực Thủ đô Hà Nội. Việc người dân nằm trong vùng thoát lũ đều không an toàn, các công trình ở khu vực này lại càng không an toàn”, KTS Trần Huy Ánh nhấn mạnh.
Nhiều quy định xây dựng ngoài đê cần phải xem xét lại
KTS Trần Huy Ánh cho biết, hiện nay, trong quy hoạch Thủ đô và quy hoạch chung, nhiều nội dung đô thị, công viên đô thị, nông nghiệp đô thị vẽ vào các khu vực thoát lũ, không phù hợp với Luật Đê điều. Cụ thể, Luật Thủ đô, quy hoạch Thủ đô cho phép xây dựng các tuyến đê mới dọc theo hành lang thoát lũ để khai thác hiệu quả quỹ đất xây dựng. Trong khu vực hành lang thoát lũ được phép tồn tại một số khu vực dân cư hiện hữu và được phép xây dựng mới với tỷ lệ thích hợp theo quy hoạch phòng, chống lũ được duyệt. Các công trình xây dựng mới trong khu vực hành lang thoát lũ bảo đảm yêu cầu không làm cản trở dòng chảy, không tôn cao bãi sông và chỉ dành cho không gian công cộng, công trình phục vụ mục đích công cộng và các công trình được phép xây dựng ngoài bãi sông theo pháp luật về đê điều.
"Nội dung này không phù hợp với Luật Đê điều và Quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Quyết định số 368/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ ký ngày 4/5/2024, trong đó xác định các khu vực hạn chế phát triển như hành lang bảo vệ nguồn nước, chú trọng bảo vệ tài nguyên nước bao gồm toàn bộ lưu vực hệ thống sông Hồng - Thái Bình thuộc lãnh thổ Việt Nam; khoanh vùng bảo vệ cụ thể, nghiêm ngặt, hạn chế bố trí phát triển, nhất là các ngành kinh tế, cơ sở sản xuất công nghiệp gây ô nhiễm, gắn với yêu cầu hệ thống xử lý các vấn đề về môi trường. Hành lang bảo vệ an toàn đê điều là ưu tiên thực hiện cắm mốc chỉ giới hành lang bảo vệ đê điều, đồng thời tăng cường đầu tư hạ tầng để nâng cấp đê. Không nâng cao các tuyến đê bối hiện có, không xây dựng đê bối mới. Tăng cường quản lý, sử dụng bãi sông bảo đảm không gian thoát lũ; có biện pháp cụ thể đối với các khu vực dân cư tập trung hiện có nằm ngoài bãi sông. Bảo vệ không gian thoát lũ; cải tạo lòng dẫn, giải phóng các vật cản ở bãi sông, lòng sông; ngăn chặn và xử lý kịp thời vi phạm pháp luật về đê điều...”, KTS Trần Huy Ánh nêu quan điểm.
Theo KTS Trần Huy Ánh, đất đai ven sông Hồng, sông Đuống đặc biệt khu vực lòng sông trong đê (bao gồm bãi sông bãi nổi) trong Luật Thủ đô cần thống nhất và nhấn mạnh tuân thủ theo Luật Đê điều. Bởi lẽ Luật Đê điều bảo vệ Hà Nội an toàn khi lũ lớn trong suốt thế kỷ 20, sẽ bảo đảm an ninh giữ nguồn nước sạch cho Hà Nội và cả vùng trong thế kỷ 21 và mai sau trước thảm họa khô hạn và ô nhiễm nguồn nước.
"Trong thời gian gần đây đất nước ta chịu nhiều tác động về biến đổi khí hậu và những tác động thay đổi nguồn nước liên quốc gia. Sông Hồng ngày càng ít nước và lòng sông biến dạng do khai thác cát tràn lan, nguồn nước cấp vào các sông Tích, Đà, Đuống, Nhuệ, Cà Lồ, kênh Ngũ huyện Khê, Bắc Hưng Hải kém dần, dẫn đến cạn dòng ngưng tụ ô nhiễm. Tất cả sông hồ Hà Nội cũng ảnh hưởng nặng nề… Trong Luật Thủ đô có đề cập đến vấn đề như: Trên địa bàn Thủ đô, nghiêm cấm lấn, chiếm, gây ô nhiễm sông, suối, hồ, ao, đầm, công viên, vườn hoa, khu vực công cộng; chặt phá rừng, cây xanh trái phép; xả chất thải chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn cho phép ra môi trường. Đây mới chỉ là mục tiêu mà chưa phải là biện pháp. Bảo vệ an ninh nguồn nước phải bao gồm đủ không gian trữ nước, giải pháp tuần hoàn nước, trách nhiệm tổ chức cá nhân sử dụng nước...", KTS Trần Huy Ánh nhấn mạnh.
KTS Trần Huy Ánh cho rằng, thiên tai ngày càng diễn biến khắc nghiệt, cực đoan, khó đoán định vì vậy cần nghiêm khắc trong việc đảm bảo an ninh nguồn nước, bảo đảm an toàn trong mùa mưa lũ và nguồn nước sạch sinh hoạt trong mùa khô hạn. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, những khu vực hành lang thoát lũ bao giờ cũng dành cho nước mùa lũ và cả mùa cạn. Vì mùa lũ có không gian để thoát nhanh, mùa khô lưu giữ lại để dùng. "Không phải ngẫu nhiên người Pháp lại quy hoạch để mặt cắt ngang sông Hồng dài khoảng 2km, trong đó thực tế dòng chảy chỉ khoảng hơn 500m, số còn lại là để dự trữ trong lúc nguy khốn… Tuy nhiên hiện nay, ở nhiều nơi dù muốn hay không đã để bờ bãi tôn cao gần bằng mặt đê, rồi khu dân cư tự phát ra ngoài đê, kéo theo đó là các công trình kiên cố đã thu hẹp diện tích mặt sông. Ví dụ như bên khu vực sông Hồng chảy qua Hà Nội. Một số nơi sắp tới còn quy hoạch đưa dân cư ra ở, xây dựng công trình kiên cố ở khu vực bãi sông. Đây là không gian vốn là dành cho nước chảy vào những lúc nguy khốn nhất. Mà trận lũ năm 1971 ở miền Bắc đã chứng minh. Thực tế mới đây, Luật Thủ đô đã cho phép xây dựng một số loại công trình ngoài đê, trước đó quy hoạch phân khu sông Hồng đã công bố vẽ nhiều khu đô thị ra ngoài đê. Qua cơn bão vừa rồi cần phải xem xét thấu đáo một cách toàn diện về vấn đề này”.
Xây dựng khu đô thị ngoài đê sẽ rất nguy hiểm
PGS.TS Đào Trọng Tứ, Trưởng ban điều hành Mạng lưới sông ngòi Việt Nam cho rằng: "Phát triển đô thị ngoài đê phải áp dụng theo các quy định của Luật Đê điều, những khu xây dựng ở bãi sông, ven đê có nằm trong vùng thoát lũ hay không, việc này phải nhận định và tính toán chính xác. Từ đó, mới tính đến quy trình thực hiện xây dựng khu đô thị. Tuy nhiên, quy hoạch xây dựng khu đô thị ngoài đê sông Hồng phải tính toán cẩn thận, không thể chỗ nào cũng có thể xây dựng. Theo quan điểm của tôi việc xây dựng khu đô thị ngoài đê sông Hồng là không khả thi và sẽ gặp rất nhiều rủi ro. Ví dụ cụ thể như cơn bão số 3 vừa qua, những khu vực ngoài đê đều ngập rất nặng, thiệt hại nhiều tài sản. Cùng với đó, việc xây dựng nhà chống lũ tại khu vực ven sông Hồng là không khả thi. Bởi, lũ tại các sông lớn thì rất nguy hiểm và khó lường. Thậm chí, nếu xảy ra vỡ đập thì không có giải pháp nào cứu nguy. Đặc thù tại sông Hồng cũng rất khác những quốc gia khác nên không thể áp dụng máy móc".
GS.TS Vũ Trọng Hồng, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho rằng: "Việc xây dựng thành phố, khu đô thị ven sông Hồng là rất nguy hiểm, không an toàn. Cơn bão số 3 vừa qua là minh chứng rõ ràng cho sự tàn phá khốc liệt đối với những khu vực ven đê ra sao, chưa kể biến đổi khí hậu ngày càng sâu sắc, phức tạp. Do đó, việc xây dựng công trình nhà ở ngoài ven đê là không phù hợp với quy định của Luật Phòng chống thiên tai. Nếu làm thành phố ở ven sông, ngoài đê là rất nguy hiểm, rủi ro lớn cho người dân sinh sống. Việc ứng cứu khi có thảm họa thiên tai cũng rất khó khăn. Do vậy cần xem xét lại việc xây dựng các khu đô thị ven sông, thậm chí là công trình bên trong những sát chân đê".
https://vov.vn/xa-hoi/sau-bao-so-3-nhieu-quy-dinh-xay-dung-ngoai-de-can-phai-xem-xet-lai-post1123769.vov
Ý kiến của bạn