Phê duyệt Quy hoạch chi tiết phát triển vùng đất, vùng nước cảng biển Cà Mau thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050

Phê duyệt Quy hoạch chi tiết phát triển vùng đất, vùng nước cảng biển Cà Mau thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050

(Vietnamarchi) - Mới đây, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Xuân Sang đã ký và ban hành quyết định 956/QĐ-BXD ngày 30/6/2025 về việc phê duyệt Quy hoạch chi tiết phát triển vùng đất, vùng nước cảng biển Cà Mau thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
12:10, 01/07/2025
Tầm nhìn đến năm 2050, tiếp tục phát triển các bến cảng mới đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng từ 5,5%/năm đến 6,1%/năm (Ảnh minh họa).

Theo đó, cảng biển Cà Mau gồm các khu bến: Năm Căn; Ông Đốc; bến cảng Hòn Khoai; bến cảng ngoài khơi cửa sông Đốc; bến cảng LNG và kho nổi tại khu vực biển Tây; các bến phao, khu chuyển tải và các khu neo chờ, tránh, trú bão.

Mục tiêu của Quy hoạch đến năm 2030 về hàng hóa và hành khách thông qua với hàng hóa từ 1,4 triệu tấn đến 3,5 triệu tấn; hành khách từ 3,1 nghìn lượt khách đến 3,3 nghìn lượt khách; Về kết cấu hạ tầng có tổng số 03 bến cảng gồm 04 cầu cảng với tổng chiều dài 240 m; Xác định phạm vi vùng đất, vùng nước phù hợp với quy mô bến cảng và đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa.

Tầm nhìn đến năm 2050, về hàng hóa và hành khách thông qua, hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng từ 5,5 %/năm đến 6,1 %/năm; hành khách với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng từ 1,1 %/năm đến 1,25 %/năm; Về kết cấu hạ tầng, tiếp tục phát triển các bến cảng mới đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa.

Về nội dung quy hoạch, phạm vi, chức năng, cỡ tàu tại các khu bến tuân thủ theo Quyết định số 1579/QĐTTg ngày 22 tháng 9 năm 2021 và Quyết định số 442/QĐ-TTg ngày 22 tháng 5 năm 2024 của Thủ tướng Chính phủ.

Về Quy hoạch các khu bến cảng, quy hoạch đến năm 2030. Tại khu bến Năm Căn, về hàng hóa và hành khách thông qua, hàng hóa 0,2 triệu tấn, hành khách từ 2,2 nghìn lượt khách đến 2,3 nghìn lượt khách.

Quy mô các bến cảng, có 01 bến cảng gồm 02 cầu cảng với tổng chiều dài 240 m, cụ thể, bến cảng Năm Căn sẽ có 02 cầu cảng tổng hợp, hàng rời với tổng chiều dài 240 m, tiếp nhận tàu trọng tải đến 5.000 tấn, đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa 0,2 triệu tấn; Tuyến vận tải hành khách từ bờ ra đảo, đáp ứng nhu cầu thông qua hành khách từ 2,2 nghìn lượt khách đến 2,3 nghìn lượt khách.

Tại khu bến Ông Đốc, phục vụ trực tiếp khu công nghiệp Ông Đốc khi có nhu cầu, tiếp nhận tàu trọng tải đến 3.000 tấn. Tuyến vận tải hành khách từ bờ ra đảo đáp ứng nhu cầu thông qua hành khách từ 0,9 nghìn lượt khách đến 1,0 nghìn lượt khách.

Tại bến cảng Hòn Khoai quy hoạch tiềm năng có điều kiện tùy theo năng lực và nhu cầu của nhà đầu tư.

Đối với bến cảng ngoài khơi cửa sông Đốc, về hàng hóa thông qua: từ 0,2 triệu tấn đến 0,3 triệu tấn; Về Quy mô các bến cảng, 01 bến cảng gồm 01 cầu cảng, cụ thể sẽ có 01 cầu cảng dầu khí ngoài khơi được phát triển phù hợp với nhu cầu hoạt động khai thác mỏ, tiếp nhận tàu trọng tải đến 150.000 tấn, đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa từ 0,2 triệu tấn đến 0,3 triệu tấn.

Tại bến cảng LNG và kho nổi tại khu vực biển Tây, về hàng hóa thông qua từ 1,0 triệu tấn đến 3,0 triệu tấn; Quy mô các bến cảng, 01 bến cảng gồm 01 cầu cảng, cụ thể có 01 cầu cảng phục vụ trung tâm điện khí LNG Cà Mau phù hợp với Quy hoạch phát triển điện lực, tiếp nhận tàu trọng tải đến 150.000 tấn, đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa từ 1,0 triệu tấn đến 3,0 triệu tấn…

Tầm nhìn đến năm 2050, tiếp tục phát triển các bến cảng mới đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng từ 5,5%/năm đến 6,1%/năm.

Về Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng hàng hải, kết cấu hạ tầng hàng hải công cộng được phát triển đồng bộ hạ tầng bến cảng, lộ trình đầu tư tùy thuộc vào khả năng bố trí, huy động nguồn lực. Trường hợp huy động nguồn xã hội hóa, cho phép đầu tư luồng hàng hải phù hợp với quy mô bến cảng theo quy hoạch.

Định hướng hạ tầng giao thông kết nối được triển khai kết nối đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và ven biển theo quy hoạch được duyệt.

Đặc biệt, bến cảng khác gồm: bến cảng phục vụ trực tiếp cho các cơ sở đóng mới, sửa chữa tàu và bến du thuyền phục vụ du lịch; bến cảng phục vụ các cơ quan quản lý nhà nước, nghiên cứu, huấn luyện, đào tạo, cung cấp dịch vụ hàng hải; các bến cảng, cầu cảng gắn liền với các khu bến chính đảm nhận vai trò hỗ trợ thu gom và giải tỏa hàng hóa bằng đường thủy…

Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký ban hành.

Chi tiết quyết định tại:  BXD_956-QD-BXD_30062025.pdf

Kiến trúc của sự kiềm chế: Khi lựa chọn không xây dựng trở thành thiết kế

Trong một thế giới đang đối mặt với sự cạn kiệt sinh thái và bão hòa không gian, hoạt động xây dựng đã trở thành biểu tượng của cả sáng tạo lẫn tiêu dùng. Trong nhiều thập kỷ, tiến bộ kiến ​​trúc được đo lường bằng những điều mới mẻ: vật liệu mới, công nghệ mới, những tượng đài mới của tham vọng. Tuy nhiên, ngày nay, ngành kiến ​​trúc ngày càng được định hình bởi một dạng trí tuệ khác, một dạng trí tuệ coi trọng những gì đã có. Các kiến ​​trúc sư đang học được rằng làm ít hơn có thể đồng nghĩa với thiết kế nhiều hơn, và sự thay đổi này đánh dấu sự xuất hiện của cái mà người ta có thể gọi là kiến ​​trúc tiết chế: một thực hành được định nghĩa bằng sự cẩn thận, bảo trì và lựa chọn có chủ đích không xây dựng.

Bài toán kẹt xe ở TPHCM: bắt đầu từ đâu ?

Nhìn ở góc độ đô thị học, giao thông là “hệ tuần hoàn máu” của thành phố. Khi mạch máu tắc, mọi cơ quan khác suy yếu: sản xuất đình trệ, dịch vụ chậm chạp, y tế khẩn cấp bị chậm trễ, chất lượng sống suy giảm. Việc điều trị căn bệnh này không thể tiếp tục theo kiểu chắp vá – mở thêm vài làn đường, nới thêm cây cầu – mà phải xem tổng thể cấu trúc đô thị, hành vi di chuyển và mô hình quản trị giao thông.

Từ kinh nghiệm phát triển đô thị ven sông đến “trục cảnh quan sông Hồng”

Bên ngoài con đê sông Hồng, nơi ít người ngoái nhìn tới, là những xóm nhỏ nơi sinh sống từ những bước chân tha hương của biết bao phận người. Họ đến từ mọi miền, mang theo đôi bàn tay chai sần và ước vọng đổi đời, sống những ngày lam lũ quanh năm chỉ để con cái được học hành tử tế hơn họ. Có người tích cóp cả đời mới dựng được căn nhà tầng đơn sơ; có cả chục con người vẫn ở trong những phòng trọ chưa đầy mười mét vuông. Họ là những người mang cả quê hương lên Hà Nội, làm đủ thứ nghề: thợ hồ, bán hàng rong, chạy xe, làm đủ thứ nghề để chắt chiu từng đồng nuôi con ăn học. Có gia đình dành dụm mấy chục năm mới dựng được căn nhà vững chãi; nhưng cũng có hàng nghìn con người thuê trọ trong những gian phòng ẩm thấp, chỉ đủ kê chiếc giường và cái gác bếp nhỏ - để rồi sáng hôm sau lại hòa vào dòng người mưu sinh. Những xóm thợ, ngõ nhỏ ấy tồn tại trong sức sống đô thị, những con người góp phần không nhỏ cho thành phố. Không ai muốn nhếch nhác, nhưng cũng không đủ điều kiện để thay đổi. Giờ đây, khi thành phố bàn chuyện chỉnh trang, cải tạo hay di dời …thì vấn đề không chỉ nằm ở bản vẽ hay phương án đầu tư, mà nằm ở chỗ: làm thế nào để những con người đã dồn cả đời vào mảnh đất bãi ấy không bị bỏ lại phía sau trong một cuộc thay đổi quá lớn và quá nhanh.

Đô thị hoá không chỉ là mở rộng diện tích, mà là mở rộng tầm nhìn

Ba thập kỷ qua, tốc độ đô thị hóa của Việt Nam được xem là một trong những hiện tượng đáng chú ý của châu Á. Nhiều khu đô thị, dân cư, khu công nghiệp, các công trình cao tầng mọc lên theo nhu cầu phát triển kinh tế cùng sự gia tăng dân số đến với các đô thị lớn. Bên cạnh đó là một hệ quả ngày càng rõ rệt: tần suất và mức độ ngập lụt, triều cường, sạt lở gia tăng sau những đợt bão lũ vừa qua ở một số đô thị lớn như Hà Nội, TPHCM, đặc biệt là ở miền Trung và Đà Nẵng. Điều này cho thấy sự tác động không chỉ đơn thuần là do “thiên tai” mà còn biểu hiện của tính chủ động trong việc hoạch định chiến lược, kế hoạch, quy hoạch chưa sát với thực tế của quy luật tự nhiên, đất, nước, dòng chảy, biến đổi khí hậu. Bài viết này đặt ra câu hỏi: nếu ta nhìn lại các cấp độ Quy hoạch từ các chuyên ngành bằng lăng kính khoa học: vật lý - địa chất - thủy văn - sinh thái, liệu có thể rút ra nguyên lý để giúp chúng ta sống hài hòa hơn với thiên nhiên và giảm thiểu rủi ro ?

Thiết kế an toàn: Cách các kiến ​​trúc sư và giám định pháp y suy nghĩ lại về an ninh trên mọi quy mô

Nhiều thập kỷ sau sự kiện 11/9 và bạo lực hàng loạt đã gây áp lực buộc các thành phố, tại Hoa Kỳ và trên toàn cầu, phải xem xét lại ý nghĩa của "an toàn". Đó là về rào chắn, cọc tiêu, giám sát? Hay là về niềm tin, khả năng hiển thị, bằng chứng, khả năng phục hồi? Một số dự án đang đối mặt với những câu hỏi này ở nhiều quy mô khác nhau để chứng minh cách kiến ​​trúc và tư duy pháp lý có thể cùng nhau bảo vệ cộng đồng và đời sống dân sự.

Ý kiến của bạn

SunGroup
VINGROUP
Rạng Đông
Nam Group
Mây trà shan
Vinmikh