Giải mã gen văn hóa kiến trúc Việt Nam
Mỗi một dân tộc dù sinh sống trong cùng một quốc gia vẫn có nền văn hóa riêng biệt, được đặt nền móng từ những ngày đầu tiên cư trú trên một vùng lãnh thổ nhất định, chịu tác động sâu sắc của điều kiện tự nhiên, được bồi tụ và hun đúc suốt chiều dài lịch sử phát triển hàng trăm, hàng ngàn năm, thường xuyên có sự tương tác - gạn lọc - tiếp thu - phát huy trong quá trình phát triển song hành cùng kinh tế - xã hội. Kiến trúc là một bộ phận hữu cơ, là một thực thể được cấu thành của văn hóa. Kiến trúc mỗi vùng miền có đặc trưng giữa các vùng miền có sự đa dạng, chỉ có thể thấy nét tương đồng chứ không thể tìm ra hai nền văn hóa giống hệt nhau, dù là hai khu vực nằm sát gần nhau. Kiến trúc và văn hóa của mỗi dân tộc có cấu trúc đặc thù, giống như cấu trúc của bộ gen sinh học, tìm hiểu, nghiên cứu, làm sáng tỏ đặc trưng văn hóa, kiến trúc các vùng miền chính là việc giải mã bộ gen trong văn hóa và kiến trúc của vùng miền đó.
1. Tổng quan về văn hóa kiến trúc
1.1. Văn hóa nói chung
Trên thế giới, có hàng trăm định nghĩa về văn hóa, dù có những quan điểm tương đối khác biệt nhưng tựu trung lại, điểm chung của các quan điểm đó là: Văn hóa là sản phẩm tinh thần và vật chất của loài người, hình thành và phát triển trong mối quan hệ qua lại giữa con người với thiên nhiên và xã hội. Nhưng sau đó, chính văn hóa lại ảnh hưởng đến quá trình phát triển của con người, tham gia vào duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, được tái tạo và phát triển trong quá trình lao động và tương tác xã hội của con người. Nó phản ánh trình độ phát triển của xã hội, được biểu hiện trong các hình thức tổ chức đời sống, cách thức lao động và hưởng thụ những giá trị vật chất và tinh thần. Hay tóm lại, văn hóa bao gồm tất cả những yếu tố đặc trưng để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác (theo Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hợp Quốc - UNESCO).
Tại Việt Nam, cuốn Đại Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo ấn hành, do tác giả Nguyễn Như Ý chủ biên, xuất bản năm 1998 bởi Nhà Xuất bản Văn hóa - Thông tin định nghĩa như sau: “Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử”. Cuốn Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2004, thì bóc tách về văn hóa theo sáu lớp: 1. Hệ thống giá trị tinh thần và vật chất; 2. Sự tích lũy giá trị văn hóa; 3. Đời sống tinh thần; 4. Tri thức và kiến thức khoa học; 5. Nhận thức xã hội và 6. Sự xuyên suốt của văn hóa theo dòng lịch sử. Học giả Trần Ngọc Thêm trong cuốn “Tìm về Bản sắc Văn hóa Việt Nam” cho rằng văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
Học giả Phan Ngọc xét văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng (Gene, xuất sứ, học vấn, tính cách,….) với hiện thực khách quan (thiên nhiên, địa lý, thời đại) biểu hiện thành kiểu lựa chọn khiến cá nhân, cộng đồng này phân biệt với cá nhân, cộng đồng khác, quốc gia này với quốc gia khác.
1.2. Văn hóa trong kiến trúc
Nền kiến trúc của một quốc gia, hẹp hơn là nền kiến trúc của mỗi tộc người trong quốc gia đó, là bộ phận cấu thành của một nền văn hóa. Điểm này được thể hiện rõ trong công trình xây dựng - là kết quả quá trình thích ứng lâu dài trong việc kiến tạo môi trường cư trú phù hợp với điều kiện tự nhiên từng khu vực, phản ánh quan niệm, suy nghĩ, nguyện vọng, sự tìm tòi, chắt lọc và tích lũy kinh nghiệm của cộng đồng đáp ứng nhu cầu bản thân và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống ngày một tốt hơn theo đà phát triển của xã hội.
Những công trình kiến trúc không chỉ là yếu tố làm nên nét đặc trưng của mỗi vùng miền đồng thời cũng là biểu tượng thiêng liêng và quý giá, là niềm tự hào của dân tộc đã sáng tạo ra công trình ấy. Thực tế kiến trúc là một ngành nghệ thuật kết hợp khoa học về tổ chức sắp xếp không gian phục vụ nhu cầu sử dụng đa dạng trong xã hội. Mỗi dân tộc, cộng đồng, tổ chức, cá nhân có một lối sống riêng, thói quen sinh hoạt riêng, chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện tự nhiên và bối cảnh xã hội riêng, có thể ổn định - biến đổi theo thời gian.
Kiến trúc nhà ở biểu hiện rõ nét nhất văn hóa ở của các dân tộc. Họ tổ chức những không gian sinh hoạt dựa trên địa hình, tận dụng các yếu tố có lợi và khắc chế những tác động bất lợi của thiên nhiên, thể hiện những quan điểm về hình thức, thẩm mỹ phù hợp với nhận thức ở mỗi thời đại của từng địa phương.
Kiến trúc cộng đồng (kiến trúc công cộng) là biểu hiện cho văn hóa cộng đồng. Nhà cộng đồng có thể lớn hoặc nhỏ, tùy thuộc vào số lượng thành viên của thôn xóm, buôn làng, tọa lạc ở đầu làng hoặc chính giữa làng, gần hoặc xa bến sông, cấu trúc, kết cấu và chi tiết trang trí có thể giống – khác nhau. Đình làng - nhà cộng đồng của người Kinh ở đồng bằng Bắc Bộ khác xa nhà Rông - nhà văn hóa cộng đồng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên cả về cấu trúc, hình thức và cách thức xây dựng: Trong khi mái đình to và trải theo chiều rộng với bốn mái và đầu đao vút cong, lợp ngói ta xếp lớp, có nhiều chi tiết trang trí cầu kỳ thì mái nhà Rông lại thuôn gọn và vút lên cao, lợp lá rừng bện tết thành mảng lớn, ít chi tiết trang trí, nếu có là những họa tiết rất đơn giản và mộc mạc.
2. Bối cảnh và sự chuyển đổi của văn hóa trong kiến trúc
2.1. Văn hóa ở truyền thống
Nước Việt Nam có cộng đồng 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng đặc sắc và một phong cách kiến trúc độc đáo, được thẩm định theo thời gian, thích ứng ở mức độ cao với điều kiện tự nhiên và bối cảnh xã hội, theo xu hướng phát triển ngày một hoàn thiện.
Văn hóa ở truyền thống do vậy cũng rất đa dạng, ngay cùng một dân tộc đã có sự khác biệt với những điều kiện sinh hoạt khác nhau theo vùng miền: sống trên vùng núi cao khác so với vùng trung du, cư trú riêng biệt khác so với cư trú xen kẽ các dân tộc khác, quần cư theo nhóm lớn khác quần cư theo nhóm nhỏ, cộng đồng thuần nông khác cộng đồng có thêm nghề thủ công…
Ví dụ về văn hóa ở một số dân tộc điển hình của Việt Nam:
Dân tộc Kinh là dân tộc chiếm số đông (khoảng 85% dân số), văn hóa ở người Kinh thể hiện ở tính quần cư làng xã vùng đồng bằng, gắn với nghề trồng lúa nước và dựa vào hệ thống sông ngòi dày đặc. Ngoài ra, người Kinh có nhiều nghề thủ công truyền thống, dựa trên thế mạnh riêng như nguyên vật liệu phong phú, khả năng thao tác và bề dày kinh nghiệm sản xuất truyền qua nhiều đời. Người Kinh thường quần tụ theo họ hàng và tổ đội sản xuất nông nghiệp và/hoặc thủ công nghiệp thành từng cụm nhà trong làng. Cấu trúc làng xóm điển hình với lũy tre, cổng làng, giếng làng, đình làng, chợ làng, cây đa, bến nước, con đò, cầu ao,… và các hoạt động văn hóa như hội làng, tục thờ cúng. Văn hóa ở truyền thống của người Kinh còn thể hiện qua hương ước làng xóm, tục lệ do làng quy định (Phép vua thua lệ làng), và nhiều tập quán khác. Về kiến trúc có thể thấy rõ văn hóa ở truyền thống của người Kinh tại thôn quê qua cách bài trí nội ngoại thất một căn nhà điển hình với hệ sinh thái khép kín vườn – ao – chuồng, tận dụng những yếu tố có lợi của điều kiện tự nhiên như đón gió mát mùa hè, cản gió lạnh mùa đông, việc đáp ứng các nhu cầu ở được chú trọng trong cả giải pháp xây dựng và tạo cảnh quan.
Ở thành thị, văn hóa ở truyền thống của người Kinh lại được xây dựng trên cơ sở phường hội sản xuất thủ công. Mỗi một căn nhà phố, dù diện tích không rộng, với chiều ngang hẹp và chiều dài lớn (nhà ống), được tổ chức hợp lý thành từng khối, có sân trong giãn cách, rất thích hợp với hoạt động sản xuất - kinh doanh theo hộ gia đình đồng thời đảm bảo đủ ánh sáng và thông thoáng cho căn nhà. Hoạt động sản xuất đi liền với không gian ở, các hộ sản xuất tập hợp thành các phường nghề, mỗi phường làm một nghề và có đền thờ ông/ bà tổ nghề.
Dân tộc Thái: Nhà của người Thái Đen khác nhà người Thái Trắng. Nhà Thái Đen có hình bát giác với hai cạnh dài ở hai mặt chính và sáu cạnh ngắn chia đôi hai đầu hồi, mỗi đầu hồi dạng nửa hình lục giác ghép sát vào gian nhà chính và không có lan can xung quanh, trong khi nhà người Thái Trắng có mặt bằng hình chữ nhật, có lan can xung quanh hoặc phía trước nhà. Ngoài ra, chi tiết khau cút bằng gỗ dạng chữ X được gắn trên nóc đầu hồi nhà giúp nhận biết nhà của người Thái Đen, vì chi tiết này không có trên mái của nhà Thái Trắng.
Dân tộc Ê-đê: Khác những dân tộc ở quần tụ quy mô vài gia đình trong một nhà với vài gian chiều dọc, người Ê-đê ở Tây Nguyên sinh sống tập trung với 20 - 30 gia đình trong họ tộc ở cùng một chỗ. Nhà của họ rất dài, cứ một gia đình mới hình thành sẽ ghép nối tiếp thêm một gian vào nhà chính (theo một hướng), cứ thế kéo dài mãi ra, có thể lên đến 30 gian, tạo thành hình thức kiến trúc nhà dài có một không hai.
2.2. Các yếu tố tác động đến văn hóa ở
Có bốn yếu tố cơ bản tác động đến văn hóa ở: - Điều kiện địa hình: Địa điểm xây dựng bằng phẳng (thuận lợi) hoặc không bằng phẳng (bất lợi); - Điều kiện khí hậu: Thời tiết nóng, lạnh, lượng mưa nhiều, ít theo mùa; ảnh hưởng của thiên tai: bão, lũ, ngập lụt, sạt lở đất … - Đời sống văn hóa - tín ngưỡng: Quan niệm - nhận thức của con người về sự thịnh vượng, tốt đẹp, thuận tiện, thẩm mỹ, niềm tin gửi gắm vào các đấng tối cao; - Liên hệ xã hội: Tiếp xúc và đón nhận những kinh nghiệm của các dân tộc khác trong việc tổ chức không gian ở (xưa kia) và của các quốc gia khác trong bối cảnh toàn cầu hóa (hiện tại và tương lai).
2.3. Văn hóa ở hiện đại - sự chuyển dịch thẳng đứng và đậm đặc hóa
Văn hóa ở hiện đại được định hình và dẫn dắt bởi ba xung lực: toàn cầu hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa.
Toàn cầu hóa đem lại những giá trị mới, có tính phổ quát, diễn ra trong bối cảnh hợp tác quốc tế ngày một sâu rộng, thẩm thấu vào đời sống kinh tế (vật chất), đời sống văn hóa (tinh thần) và ảnh hưởng nhất định đến văn hóa ở (vừa trên khía cạnh vật chất, vừa trên khía cạnh tinh thần).
Hiện đại hóa nảy sinh từ nhu cầu tự thân của xã hội, nâng cấp trình độ phát triển và khai thác có hiệu quả những tiềm năng để thu hẹp khoảng cách với các nước tiên tiến, góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống người dân, trong đó chất lượng ở là hợp phần quan trọng.
Đô thị hóa phản ánh trình độ phát triển của một quốc gia, vùng miền về kinh tế. Đô thị đóng vai trò là cực tăng trưởng, là đầu tàu thúc đẩy kinh tế của một vùng lãnh thổ, có sức hút đội ngũ lao động (cả lao động chân tay và trí óc) đến sinh cơ lập nghiệp. Dân số đô thị tăng nhanh ở tất cả các nhóm nước, từ các quốc gia tiên tiến nhất cho đến những quốc gia chậm phát triển.
Sự chuyển dịch theo phương thẳng đứng là một biểu hiện rõ nét nhất của văn hóa ở hiện đại dưới tác động của ba xung lực trên, cộng đồng ngày một vươn lên cao khỏi mặt đất, khi các đô thị trở nên đông đúc, dân số tăng nhanh hơn tốc độ mở rộng, vượt quá khả năng dung nạp. Ở Hà Nội, những năm 1990 và 2000, chung cư cao nhất chỉ 15 - 20 tầng, đến những năm 2010 là 30 - 35 tầng, và đến thời điểm cuối năm 2022 lên tới 40 - 50 tầng. Cuộc ganh đua về độ cao trong đô thị chưa có dấu hiệu suy giảm, các công trình xây sau thường phải cao hơn những tòa nhà trước đó. Ngoài vươn cao, các tòa nhà còn xây chen, khiến mật độ xây dựng, mật độ cư trú tăng nhiều lần, không gian xanh và hạ tầng thiếu, môi trường đô thị ngột ngạt, ô nhiễm, mức độ ô nhiễm không khí hiện tại thường từ mức đỏ đến nâu và tím, rất nguy hại cho hệ hô hấp.
Thực tế nhiều cư dân chưa quen với sinh sống trong những tòa tháp thẳng đứng như vậy. Chiều cao lớn, mật độ dân cư dày gây áp lực nặng nề lên các không gian sử dụng chung như sảnh tầng, thang máy, hệ thống đổ rác, khu vui chơi giải trí, vườn mái, trang thiết bị tiện ích, chỗ đỗ xe, …ảnh hưởng nghiêm trọng tiện nghi môi trường sống.
Hệ lụy của sự phát triển đặc hóa và cao hóa, ngoài chất lượng ở giảm sút còn gây nhiều quan ngại về sự quá tải đối với hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đô thị, tiềm ẩn nguy cơ xung đột lợi ích, là bài toán khó cần giải quyết.
3. Những vấn đề đặt ra với văn hóa và nhiệm vụ kiến trúc trong bối cảnh hiện nay
3.1. Những vấn đề tích cực và một số ví dụ điển hình
Phát triển kiến trúc và phát huy văn hóa kết hợp bản sắc và hiện đại cần dựa trên cơ sở cân bằng và hài hòa lợi ích của các bên liên quan, nhất là bên liên quan trực tiếp mà cụ thể là cộng đồng dân cư. Thực tế cho thấy nơi nào có sự kết hợp hài hòa lợi ích, nơi đó sẽ thành công và trở nên thịnh vượng.
Ví dụ ở Huế: Nhà vườn Huế là địa điểm rất thu hút khách du lịch quốc tế khi họ đến tham quan cố đô, bên cạnh hệ thống di sản cung điện lăng tẩm của các vị vua nhà Nguyễn vẫn còn hiện diện và được bảo tồn khoa học với sự giúp đỡ của chính phủ và chuyên gia Đức. Nhà vườn Huế là một tổng thể hài hòa giữa môi trường nhân tạo và môi trường thiên nhiên, thể hiện sự tinh tế và tỉ mỉ của người Huế trong xây dựng nhà ở và tổ chức cảnh quan, được nâng tầm thành một nghệ thuật, thể hiện triết lý sâu sắc của chủ nhà về thiên nhiên - vũ trụ - con người. Trồng những cây gì, vị trí ở đâu, kết hợp với nhau ra sao, bể cảnh hiện diện chỗ nào, được trang trí những gì, gắn kết với căn nhà theo trục, bố trí quanh nhà thành từng lớp, … đều được nghiên cứu kỹ lưỡng. Việc chăm sóc cây cũng đòi hỏi sự tỉ mẩn và khéo léo, kiên trì. Chính quyền hỗ trợ người dân gìn giữ những nét tinh túy của ngôi nhà qua nhiều thế hệ và người dân hợp tác với chính quyền đẩy mạnh du lịch trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
Ví dụ ở Hội An: Khu phố Cổ Hội An với hàng trăm căn nhà còn nguyên vẹn từ thế kỷ 16 - 17 rất thu hút du khách cả trong và ngoài nước. Chính quyền và người dân địa phương hiểu rất rõ tầm quan trọng của công tác bảo tồn, gắn liền danh tiếng của đô thị và sinh kế của người dân, đã cùng với người dân xây dựng bản cam kết, theo đó người dân có trách nhiệm gìn giữ nhà cổ và không để các hoạt động kinh doanh hoặc phục vụ du lịch ảnh hưởng đến ngôi nhà còn chính quyền quản lý chặt chẽ các hoạt động sửa chữa nhà ở và tạo điều kiện thuận lợi nhất về chính sách để các hộ dân an tâm vì sinh kế được đảm bảo. Cả hai bên đều hiểu rằng nếu không giữ gìn di sản nhà cổ thì Hội An sẽ không còn là điểm đến của hàng chục vạn khách du lịch, phần lớn là du khách ngoại quốc, do đó kinh tế xã hội địa phương sẽ kém thịnh vượng và thu nhập cá nhân vì thế cũng giảm sút.
Văn hóa ở của một bộ phận người Việt vẫn lưu giữ được những giá trị tốt đẹp cơ bản của dân tộc, thể hiện qua cách bài trí không gian ở mang đậm dấu ấn truyền thống và những phong tục tập quán sinh hoạt truyền qua bao đời, chưa phai nhạt trong lòng xã hội hiện đại, góp phần bảo tồn văn hóa và kiến trúc bản địa. Bên cạnh đó, một bộ phận người Việt khác theo đuổi lối sống hiện đại văn minh và biết tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa cũng như phong cách kiến trúc mang tính thời đại của thế giới như kiến trúc xanh, kiến trúc sinh thái, kiến trúc hiệu quả năng lượng, kiến trúc thông minh,… làm phong phú bức tranh văn hóa và kiến trúc nước nhà. Điểm này cho thấy, sự cân bằng giữa văn hóa ở truyền thống và văn hóa ở hiện đại, là hai phạm trù cộng sinh chứ không loại trừ nhau.
3.2. Những vấn đề tiêu cực và một số biểu hiện cụ thể
Nhìn lại sự phát triển của kiến trúc hiện tại trong hơn 20 năm qua, có thể thấy dường như những cấu trúc di truyền có căn tính tốt đã mất mát hao hụt đi rất nhiều, thay vào đó là nhiều biến dị bất lợi. Những vấn đề tiêu cực biểu hiện trong kiến trúc nông thôn, bảo tồn di sản đô thị, phát triển nhà ở đô thị, cảnh quan đô thị, … Dễ dàng nhận thấy yếu tố bản sắc - vốn được tích lũy bao năm, đã từng có vị trí và thành tựu đáng kể - chưa được phát huy trong xã hội hiện đại, thậm chí nảy sinh đứt gãy, biến dạng giữa truyền thống và hiện đại.
Một số đô thị nổi tiếng về cảnh quan thơ mộng và kiến trúc đẹp như Đà Lạt ở phía Nam và Sapa ở phía Bắc giờ đã bị bê tông hóa trên 80%. Mặt biển Quảng Ninh bị san lấp, quy hoạch phân lô, vây hãm các đảo đá vôi. Bờ biển ở Đà Nẵng và Nha Trang, … bị resort hóa, khách sạn hóa san sát, ngăn người dân từ phố bước ra dạo biển. Đó là sự phá hủy nhân danh phát triển, là thất bại rõ ràng của giới chuyên môn có tâm nhưng bất lực trước dã tâm của các chủ đầu tư đầy tiềm lực tài chính nhưng thiếu kiến thức, chỉ thấy lợi ích trước mắt mà sẵn sàng bỏ qua lợi ích lâu dài của toàn thể cộng đồng. Khắc phục sửa chữa các sai lầm này mất rất nhiều thời gian, công sức và thậm chí là không thể khôi phục những giá trị từng có.
Bài học rút ra từ trường hợp Làng cổ Đường Lâm, người dân đồng loạt ký đơn kiến nghị trả lại danh hiệu di sản, trong khi nhiều nơi khác người dân ao ước nhận danh hiệu di sản nhưng chưa toại nguyện. Lý do cho hành động “khó hiểu” này là người dân được hưởng lợi rất ít từ các hoạt động khai thác giá trị di sản, đồng thời phải chịu nhiều bất tiện trong cuộc sống khi cả làng bị “đóng dấu di sản”, không thể sửa chữa nhà đã xuống cấp, không thể mở rộng xây mới khi con cái đến tuổi trưởng thành, hay kết hợp, thay đổi mô hình sản xuất kinh doanh của hộ gia đình… Đây là một bài học đáng giá về cân bằng lợi ích trong bảo tồn di sản.
Vấn đề đặt ra, ngoài lợi ích chưa hài hòa, là sự thiếu chuẩn mực trong văn hóa ở cũng như kiến trúc nhà ở, do chưa có những quy định cụ thể và hướng dẫn chi tiết của hiệp hội nghề nghiệp (Hội Kiến trúc sư Việt Nam). Các thiết kế đạt giải từ nhiều cuộc thi thiết kế mẫu nhà, kiến tạo không gian sống, … vẫn chưa tìm được kênh tiếp cận thực tiễn nào để có thể triển khai trên diện rộng và trở thành một cuộc cách mạng trong thiết kế nhà ở, hướng tới môi trường sống - văn hóa sống thực sự lành mạnh.
4. Gen trong kiến trúc – một vấn đề thực tiễn mới
4.1 Hệ quy chiếu 1: Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên ở đây chính là đặc điểm địa hình, thổ nhưỡng, thủy văn, khí hậu, môi trường, sinh thái cảnh quan của một khu vực. Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến cách thức cư dân xây dựng công trình để phục vụ nhu cầu, chất lượng cuộc sống.
Địa hình bằng phẳng người dân làm nhà liền đất, địa hình mấp mô thì xây nhà sàn. Nơi thường xuyên bị ngập lụt nền nhà được tôn cao, nơi hay hứng chịu gió bão mái nhà ít dốc hơn các vùng khác để giảm thiểu nguy cơ tốc mái. Vùng chịu tác động của gió khô nóng giải pháp chống nóng cho không gian ở được đặt lên hàng đầu, vùng núi cao có mùa đông lạnh giá, mùa hè mát cấu trúc không gian, kết cấu mái - tường nhà lại hoàn toàn khác nhau.
Điều kiện tự nhiên cũng quyết định vật liệu chế tạo, làm tăng tính đa dạng. Nhà vùng Sơn Tây chủ yếu xây bằng đá ong là loại vật liệu có sẵn, khai thác tại chỗ, chỉ cần gạt lớp đất mỏng trên bề mặt là đá ong hiện ra, dùng dao xắn thành từng viên có kích thước phù hợp. Nhà ở vùng Ninh Bình lại xây bằng vật liệu từ nguồn đá vôi phong phú. Một số vùng khác của đồng bằng Bắc Bộ không được thiên nhiên ưu đãi với các mỏ đá thì lại tận dụng đất đào đắp từ quá trình đào kênh, đào ao, trộn với rơm rạ là phụ phẩm của quá trình canh tác trồng trọt để xây nhà, sau này là gạch đất nung. Ở miền núi phía Bắc có nhiều rừng, đại đa số nhà được làm từ gỗ, tre, nứa, lá, … là những vật liệu rất dễ tìm kiếm trong điều kiện tự nhiên của vùng.
4.2. Hệ quy chiếu 2: Bối cảnh văn hóa
Bối cảnh văn hóa ở đây chính là thiết chế xã hội của cộng đồng dân cư được lưu truyền và bồi đắp qua nhiều thế hệ. Thiết chế xã hội quy định hành vi ứng xử của mỗi thành viên cộng đồng trong cuộc sống hàng ngày, cùng những phong tục tập quán, quan niệm phổ biến được thừa nhận và thực hiện rộng rãi, tín ngưỡng, lễ hội cùng rất nhiều hình thức biểu hiện ở nhiều khía cạnh.
Thiết chế văn hóa cùng những phong tục, tập quán và quan niệm được thể hiện rõ qua cấu trúc không gian sinh sống của cộng đồng dân cư, từ quy mô làng xóm cho đến phạm vi nhỏ mỗi căn nhà. Cùng là lối sống quần tụ vài chục gia đình trong họ tộc trên một khu đất nhưng nhà người Kinh lại tách rời nhau, xen kẽ với vườn tược ao chuồng trong khi nhà người Ê-đê lại kề vách nhau tạo thành dãy dài. Đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc khí hậu đông lạnh giá rất coi trọng bếp lửa, bếp là không gian trung tâm của căn nhà. Trong khi ấy người Kinh lại quan niệm bếp là nhà phụ, xây tách khỏi nhà chính. Cũng chiếm vị trí trung tâm, cũng có sân nhưng nhà cộng đồng của người Kinh (đình làng) và của người Tây Nguyên (nhà Rông) lại khác nhau ở quan niệm, sân đình luôn đặt ở trước đình làng trong khi sân nhà Rông ở bốn phía, vì đồng bào dân tộc Tây Nguyên khi có lễ lạt hoặc hội họp thường đi vòng quanh nhà Rông, còn người Kinh chỉ tập trung phía trước đình làng.
4.3. Hệ quy chiếu 3: Nhận thức của giới làm nghề
Quá trình toàn cầu hóa làm thế giới xích lại gần nhau hơn bao giờ hết, chia sẻ giá trị chung và cùng phát triển thông qua hợp tác - chuyển giao. Đó là mặt tích cực.
Nhưng cơ hội luôn đi kèm thách thức. Toàn cầu hóa có xu thế đẩy những cộng đồng thiệt thòi và các nhóm dân tộc thiểu số ra xa sự phát triển chung của toàn xã hội vì một số nguyên nhân, trong đó căn bản là những khu vực này hầu hết ở vùng sâu vùng xa, đi lại khó khăn, cơ sở vật chất, hạ tầng thông tin còn nhiều hạn chế.
Quá trình đô thị hóa ồ ạt với các thiết kế rập khuôn, áp đặt thẩm mỹ, khiến đời sống tinh thần con người ngày càng đơn điệu, áp lực. Đô thị lan rộng, vây bọc làng xóm, “gặm nhấm” dần làng xóm. Sự phát triển mất cân bằng, mật độ dân số tăng nhanh và khai thác quá mức ở nơi này tương phản với tình trạng bị bỏ quên, thiếu thông tin và chậm tiến tại nơi khác. Vì vậy, một trong những thách thức của kiến trúc sư ngày nay là bằng cách nào có thể làm việc cho những cộng đồng yếu thế, bị gạt ra lề xã hội, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa bản địa, không bị hòa tan bởi các xu hướng kiến trúc thực dụng thương mại đang tràn lan.
Đô thị lớn phát triển khó kiểm soát, tính hiện đại đã lấn át tính truyền thống và yếu tố quốc tế áp đảo bản địa, dẫn đến sự mai một bản sắc kiến trúc và bản sắc văn hóa. Đó là một nguy cơ đã được các nhà văn hóa học và xã hội học cảnh báo.
Do vậy, kiến trúc sư cần nhận thức rõ quá trình toàn cầu hóa, đô thị hóa, “gạn đục khơi trong”, thấy bức tranh toàn cảnh thực trạng bất cập của sự phát triển đô thị và nông thôn, để có giải pháp gìn giữ và phát huy những tinh chất cốt lõi của kiến trúc, văn hóa dân tộc và địa phương, không để toàn cầu hóa, đô thị hóa và hiện đại hóa bào mòn. Giới làm nghề đi tiên phong, phát huy ảnh hưởng tích cực sang những đối tượng khác.
4.4. Hệ quy chiếu 4: Nhận thức của xã hội
Dù kiến trúc sư là người khởi xướng và đi trước mở đường, việc bảo tồn di sản và giữ gìn - phát huy bản sắc văn hóa cũng như kiến trúc vẫn phụ thuộc phần lớn vào cộng đồng với tư cách là chủ thể thụ hưởng giá trị của di sản và bản sắc. Cộng đồng đóng vai quan trọng trong việc hiện thực hóa các dự án bảo tồn di sản, thông qua các hoạt động cụ thể và thiết thực hàng ngày, như tôn trọng vùng đệm quanh di sản, không xâm lấn, xây dựng trái phép hay kinh doanh gây ảnh hưởng đến di tích, tham gia các nghi lễ, lễ hội một cách văn minh, tuân thủ những phong tục tập quán, thuần phong mỹ tục. Nhận thức này không thể đóng khung trong một hoặc vài nhóm đối tượng, mà phải được nhân rộng cả xã hội tạo nên sức mạnh hiệu quả tổng thể. Để thay đổi nhận thức xã hội cần hội tụ đủ các điều kiện, và thường có sự khởi xướng, các tầng lớp trí thức - tinh hoa của xã hội luôn lĩnh ấn tiên phong. Hơn nữa, quy hoạch và phát triển đô thị hiện đại rất coi trọng sự tham gia của cộng đồng, xem đó là chìa khóa dẫn đến thành công, sự tham gia của cộng đồng - ở mức độ cao mang tính chủ động và tích cực - có thể phát huy hiệu quả khi sự thay đổi nhận thức được kích hoạt.
4.5. Cấu trúc gen trong kiến trúc
Trong sinh học, mỗi loài sinh vật có một bộ gen riêng, các cá thể của cùng một loài rất hiếm khi giống hệt nhau vì có cấu trúc gen thay đổi ở cách sắp xếp và ghép nối của các yếu tố cấu thành. Gen là một đoạn DNA, mang thông tin mã hóa cho một sản phẩm di truyền từ thế hệ này sang thế hệ kế tiếp. Có bốn loại phân tử cấu thành gen - là cytosine (ký hiệu là C), guanine (ký hiệu là G), adenine ( ký hiệu là A) và thymine (ký hiệu là T). Bốn phân tử này kết hợp với nhau theo nguyên tắc bổ sung (A chỉ liên kết với T và C chỉ liên kết với G) để tạo nên chuỗi DNA mạch kép, mang gen di truyền.
Tương tự trong kiến trúc, mỗi dân tộc có một nền văn hóa và kiến trúc riêng, được quyết định bởi bốn yếu tố chủ đạo là điều kiện địa hình (ký hiệu là ĐH), điều kiện khí hậu (ký hiệu là KH), phong tục tập quán bao hàm cả tín ngưỡng (ký hiệu là PT) và quan hệ xã hội (ký hiệu là XH). Bốn yếu tố này cùng tác động đến lối sống cộng đồng và cách thức họ tổ chức không gian đáp ứng các hoạt động sống của cộng đồng mình. Mức độ tác động nhiều - ít, mạnh - yếu khác nhau dẫn đến các dạng thức khác nhau của công trình kiến trúc. Mỗi một hình thái kiến trúc luôn có thể được bóc tách và phân tích dựa trên hệ bốn tọa độ ĐH, KH, PT và XH này. Bốn “gen kiến trúc” ĐH, KH, PT và XH kết hợp với nhau theo một tỷ lệ nhất định (giống như gen sinh học C, G, A và T) song linh hoạt và đa chiều hơn, không theo hai cặp bất biến như gen sinh học. Đối với mỗi một cộng đồng, hàm lượng của từng yếu tố cũng có thể sẽ thay đổi dưới tác động của thời gian, tiến bộ trong lao động sản xuất và tri thức. Có thể đánh giá một cách định tính sự hòa trộn của ĐH, KH, PT và XH đối với mỗi kiểu kiến trúc của từng dân tộc thông qua quan sát, phân tích sơ bộ. Để đánh giá định lượng, rất cần sự nghiên cứu sâu và có hệ tiêu chí, thang đo được xây dựng khoa học, qua những đề tài nghiên cứu trọng điểm tầm cỡ quốc gia và cần đầu tư kinh phí thích đáng.
5. Vai trò các bên trong việc hình thành bộ gen kiến trúc
5.1. Kiến trúc sư (KTS)
Về mặt nhận thức, kiến trúc sư ý thức được những điểm sau:
– Tình trạng bất bình đẳng xã hội trong kiến trúc: Những nhóm người yếu thế không có kiến trúc hoặc không đủ khả năng thuê kiến trúc sư thiết kế, công trình có thể không đáp ứng đầy đủ nhu cầu và thẩm mỹ;
– Trách nhiệm dấn thân của giới kiến trúc trong việc xóa bỏ những bất bình đẳng trong kiến trúc, đặc biệt quan tâm phụng sự những cộng đồng yếu thế vùng sâu, vùng xa hay những khu vực đô thị, nông thôn kém phát triển;
– Trách nhiệm trong việc hạn chế xu hướng kiến trúc thực dụng, những ảnh hưởng tiêu cực của tình trạng kiến trúc rập khuôn, áp dụng công nghệ ồ ạt, vì lợi ích thuần túy của chủ đầu tư mà bỏ qua những khía cạnh văn hóa, nhân văn, bản sắc và bản địa; Nhận thức rõ trách nhiệm này KTS sẽ có tầm nhìn, sẽ xác định được những mục tiêu cụ thể và hành nghề không nhân danh gì ngoài sáng tạo vì văn hoá và con người.
Trong sự tự ý thức, tu thân, và quá trình sáng tạo bền bỉ, kiên định thử và sai để tìm ra các mô hình chuẩn, kiến trúc sư sẽ có được niềm vui và hạnh phúc lâu bền trong cống hiến và sớm hay muộn, đóng góp của họ sẽ được xã hội công nhận, cộng đồng tôn vinh, được đền đáp xứng đáng cả về vật chất, tinh thần. Khi đã có uy tín và ảnh hưởng nhất định, kiến trúc sư sẽ đóng vai trò lớn hơn, có thể phát động thành phong trào xã hội.
Về mặt thực hành, kiến trúc sư liên tục thử nghiệm những mô hình mới, kiểm chứng sự phù hợp và điều chỉnh sao cho việc ứng dụng dễ dàng và rộng rãi hơn, phù hợp nhiều đối tượng.
Cao hơn, sản phẩm kiến trúc cần đáp ứng không chỉ nhu cầu về không gian cư trú/sinh hoạt an toàn, tiện nghi mà trở thành một thực thể hữu cơ, tương tác và cộng sinh với người sử dụng, hài hòa với môi trường xung quanh. Hơn nữa, công trình kiến trúc phải có đời sống riêng: Có quá khứ (truyền thống, lịch sử), có tương lai (bền vững, có khả năng cải tạo và phát triển theo mục đích người sử dụng và/hoặc những thành tựu mới của khoa học, công nghệ, trong đó có khoa học kiến trúc, …). Ngoài ra, công trình góp phần tạo lập hoặc tái khám phá những giá trị văn hóa, lịch sử bản địa, nâng cao lòng tự hào về truyền thống, nâng cao dân trí, là chỉnh thể có khả năng truyền cảm hứng và lan tỏa (trở thành hình mẫu để kế thừa, phát triển, góp phần định hình thẩm mỹ, giáo dục thẩm mỹ cho cá nhân và cộng đồng). Bản thân công trình có nội lực tự bền vững, vừa kết nối với thế giới xung quanh, vừa tự cường, không bị “hòa tan” khi hội nhập, hàm chứa năng lực tự bảo vệ, có sắc thái riêng trong bối cảnh xã hội thông tin phát triển vũ bão, bùng nổ trí tuệ nhân tạo và công nghệ, trong “thế giới phẳng” toàn cầu hóa len lỏi mọi ngóc ngách đời sống xã hội.
5.2. Nhà nghiên cứu kiến trúc (NNC)
Các nhà nghiên cứu kiến trúc cần phối hợp với kiến trúc sư hướng về cộng đồng, nhất là những cộng đồng yếu thế, thiệt thòi, thu hẹp khoảng cách giữa điều kiện sống và sự hưởng thụ tiện ích cuộc sống của các cộng đồng trong xã hội. Thấm nhuần và tích lũy những gen bản sắc vùng miền, xây dựng phả hệ kiến trúc, kiến tạo nên những gen mới của thế hệ kế tiếp. Sự đồng hành giữa nghiên cứu và thực hành, ứng dụng là chìa khóa giải các bài toán khó về bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị bản sắc văn hóa, kiến trúc. Nghiên cứu tổng hợp và đánh giá các mô hình có sẵn, tìm tòi điểm mới, khám phá cách tiếp cận khác biệt, hoàn thiện và phát triển mô hình mới, vượt qua thách thức của thời đại.
5.3. Nhà hoạch định chính sách (NHĐ)
Các dự án quy hoạch và xây dựng luôn cần đến hành lang pháp lý là các bộ luật, cơ chế, chính sách, các quy chuẩn, tiêu chuẩn,... Các khung chính sách hiện có được xem là chỉ gắn với các chủ thể công quyền (nhà nước) mà không coi chính sách là việc thực thi những chủ trương, đường lối, quan điểm của toàn xã hội bao gồm cả doanh nghiệp, các tổ chức, thậm chí là từng gia đình hay mỗi cá nhân. Có nhiều hình thức mới của quá trình phát triển thời đại 4.0 đã đem đến những thử thách mới, đặc biệt trong lĩnh vực bảo tồn di sản, sở hữu trí tuệ và tính đa dạng, vì vậy cần nêu cao trách nhiệm của những người đi đầu, những nhà quản lý và huy động trách nhiệm toàn xã hội. Các nhà hoạch định chính sách nên tăng cường tiếp nhận những ý kiến đề đạt của các nhà nghiên cứu, nhà chuyên môn, có cơ sở điều chỉnh, thay đổi hệ thống luật định, chính sách mới phù hợp xu thế thời đại. Trong đó quan tâm đến các chính sách tài chính cho văn hóa, thúc đẩy các nguồn lực cho chính sách bảo tồn và phát triển, tôn vinh các giá trị văn hóa, tuyên truyền, quảng bá các hình ảnh đẹp về văn hóa kiến trúc đến mọi người và thế giới.
5.4. Cộng đồng dân cư (CĐDC)
Cộng đồng dân cư có trách nhiệm tham gia tích cực vào quá trình quy hoạch, thiết kế và xây dựng đô thị, bảo tồn, tôn tạo và phát triển di sản. Sự thay đổi trong nhận thức cộng đồng sẽ là sức mạnh. Cộng đồng chính là người phát hiện và trực tiếp giải quyết vấn đề.
Sự phối hợp của bốn bên: KTS - NNC - NHĐ - CĐDC cũng là một “gen” khác, song hành với gen kiến trúc, thúc đẩy nhau, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững trong kiến trúc.
6. Bàn luận và gợi mở
6.1. Quay trở lại câu chuyện bảo tồn và phát triển
Bảo tồn và phát triển là bài toán muôn thuở, cuộc sống vận hành không ngừng luôn đặt ra những nhu cầu mới song cần tiếp thu và bảo tồn những giá trị cũ đã đi qua. Xã hội hiện đại phát triển nhanh, quá trình toàn cầu hóa ngày một sâu rộng, những gì là “riêng biệt”, là “bản sắc”, là “độc đáo”, ngày càng “hiếm có khó tìm”, càng được đề cao và coi trọng.
Đã qua rồi thời kỳ bảo tồn đồng nghĩa với bảo tàng hóa, đóng hộp kính hiện vật, chỉ chiêm ngưỡng từ xa, không tương tác, không cảm nhận, không tiếp xúc hiện vật. Tách biệt khỏi hơi thở cuộc sống, di sản sẽ trở nên khô cứng, thiếu sức sống, cộng đồng không được hưởng lợi. Thời đại ngày nay, khi tư duy rộng mở, chúng ta có thể học hỏi những mô hình hay, bài học tốt từ khắp thế giới. Bảo tồn và phát triển là mối quan hệ cộng sinh, thúc đẩy lẫn nhau. Bảo tồn lưu giữ giá trị quá khứ cho hiện tại và tương lai, phải gắn với phát triển, đem lại giá trị gia tăng cho xã hội, tất cả các bên cùng hưởng lợi. Từ những giá trị gia tăng đó thông qua nhiều hình thức tổ chức phong phú, sáng tạo mới lạ, tạo nên những giá trị gia tăng không ngừng. Khi giá trị gia tăng đủ lớn, sẽ quay lại là nguồn kinh phí cho công tác bảo tồn. Linh hoạt và thích ứng cao, theo kịp sự thay đổi nhu cầu xã hội, mới đảm bảo bền vững lâu dài. Không đạt được tiêu chí này, tính bền vững sẽ dừng ở mức độ ngắn hạn, “lỡ nhịp” với đời sống hiện đại.
Toàn cầu hóa, đô thị hóa, hiện đại hóa là ba dòng chảy cùng hướng, cộng hưởng thành dòng lũ có thể cuốn phăng những giá trị di sản quý giá nhân danh phát triển. Cần biến những yếu tố mới thành động lực hỗ trợ công tác bảo tồn vượt qua trở lực, không bị mắc kẹt, chệch hướng?
6.2. Liệu có lối đi tắt?
Là quốc gia đi sau trong lĩnh vực bảo tồn và phát huy giá trị di sản, Việt Nam hưởng lợi thế là có thể tổng kết các mô hình phát triển được đúc rút từ lý luận cũng như thực tiễn trên thế giới, đặc biệt hữu ích là kinh nghiệm từ các quốc gia trong khu vực có điều kiện tự nhiên, xã hội và văn hóa tương đồng. Điều này giúp tiết kiệm thời gian, công sức và các nguồn lực, Việt Nam cần mạnh dạn “đi tắt đón đầu” bằng cách tham khảo, kế thừa đồng thời sáng tạo lựa chọn lối đi cho riêng mình với phương thức thích hợp.
Để có lối đi tắt, rất cần sự phối hợp chặt chẽ của các bên liên quan. KTS lãnh trách nhiệm đi trước mở đường, với những ý tưởng xuất phát từ các quan sát và thử nghiệm mô hình trong thực tiễn, qua từng dự án để kiểm chứng tính thích hợp. Ba bên còn lại cần theo sát KTS và hỗ trợ KTS, theo phân vai như sau:
- NNC phối hợp cùng KTS, tổng hợp các mô hình phát triển và xác định các hệ số đi kèm từng yếu tố để kết hợp bốn yếu tố ĐH, KH, PT và XH theo những tỷ lệ phù hợp nhất định, định hình bộ gen kiến trúc tương ứng; - NHĐ mở hành lang pháp lý, là một trong những cơ sở quan trọng đưa mô hình vào áp dụng thực tiễn, đem lại hiệu quả thiết thực;
- CĐDC nêu vấn đề để NNC phối hợp với KTS tìm kiếm mô hình, đề đạt nguyện vọng cho các chuyên gia xem xét đưa vào mô hình cũng như phương thức, và gửi phản hồi đến các chuyên gia sau một thời gian dự án vận hành thực tế, khẳng định tính đúng đắn và kiểm chứng hiệu quả của mô hình.
Để có được sự phối hợp chặt chẽ, bốn bên cần một cơ chế thiết lập, một kênh gặp gỡ, trao đổi thường xuyên. NHĐ khi ấy lại phát huy vai trò đầu tàu, ban hành văn bản pháp lý ràng buộc trách nhiệm của các bên, phối hợp, tham vấn để hiện thực hóa các cơ chế, chính sách. Đây là công việc cấp bách, cần sớm thực hiện.
6.3. Công cụ nào cho Kiến trúc sư phát huy vai trò hạt nhân?
Để đóng góp được nhiều nhất cho xã hội, vì mục tiêu nhân văn cao cả, vì hạnh phúc con người, KTS phải tổng kết và chuyển hóa các kiến thức chuyên môn thành mô hình cơ bản, sáng tạo không ngừng ra những biến thể khác nhau theo từng kịch bản phát triển, dựa trên yếu tố “gen” kiến trúc đã xác định.
Công cụ quan trọng KTS cần trước tiên là pháp lý, trao cho KTS nhiều trách nhiệm hơn, tiếng nói của KTS được lắng nghe, tiếp thu nhiều hơn, từ đó những ý tưởng nhân văn tốt đẹp, các mô hình được tìm tòi, nghiên cứu công phu đi thẳng vào thực tế, phục vụ sự phát triển cộng đồng.
Công cụ pháp lý quy định cụ thể cơ chế phối hợp, vai trò, trách nhiệm từng bên. Với thượng phương bảo kiếm này, KTS có cơ sở thúc đẩy hoạt động xã hội, phá bỏ rào cản, truyền cảm hứng mạnh mẽ, huy động nhân lực, vật lực toàn xã hội.
7. Kết luận
Thời đại 4.0 đem lại nhiều cơ hội phát triển kinh tế, hội nhập văn hóa, hợp tác khoa học, công nghệ và lan tỏa kiến trúc, tuy nhiên, luôn đi kèm thách thức. Bản sắc văn hóa và kiến trúc bản địa không thể bị mai một, hòa tan, biến mất.
Văn hóa và kiến trúc gắn bó khăng khít với nhau, tạo nên hồn cốt dân tộc. Truyền thống là điểm tựa vững chắc cho văn hóa và kiến trúc trong quá trình tiếp thu những yếu tố mới để thích ứng với thời đại.
Văn hóa và kiến trúc bản địa có bộ gen cần giải mã, với sự kết hợp ở những tỷ lệ khác nhau của bốn yếu tố cơ bản là địa hình, khí hậu, phong tục tập quán và quan hệ xã hội. Các yếu tố này có thể thay đổi, do vậy cần được bóc tách, định lượng làm cơ sở xác định các giá trị, sao cho sản phẩm cuối cùng - một nền kiến trúc - không mất đi giá trị cốt lõi và không lạc hậu với thời cuộc.
Trách nhiệm đặt lên vai Kiến trúc sư, Nhà nghiên cứu, Nhà hoạch định và Cộng đồng dân cư. Để mô hình thành công trong thực tế, vai trò của mỗi bên có liên quan được quy định cụ thể trong từng trường hợp. Các trường hợp khác nhau sự kết hợp sẽ khác nhau, dẫn đến khái niệm hệ gen thứ hai - phụ trợ cho hệ gen thứ nhất trong kiến trúc. Trong mọi trường hợp, kiến trúc sư luôn là người khởi xướng đi tiên phong, là nhân tố tập hợp sức mạnh xã hội.
Khi bộ gen được giải mã, nền kiến trúc nói riêng và văn hóa nói chung sẽ có đủ sức đề kháng với những mặt trái của quá trình phát triển, tiếp thu được những yếu tố tích cực và tốt đẹp để phát triển hài hòa, lành mạnh./.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Như Ý (1998), Đại Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam Nhà Xuất bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội;
2. United Nations Education, Science and Education Organisation (UNESCO) (1972), World Heritage Convention;
3. Trần Ngọc Thêm (2012), Tìm về Bản sắc Văn hóa Việt Nam;
4. Phan Ngọc (1994), Văn Hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới;
5. J. Philip Gruen (2017), Vernacular Architecture / Encyclopedia of Local History - Third Edition Rowman & Littlefield, Maryland;
6. Nguyễn Quốc Thông, Tôn Đại, Nguyễn Quang Minh & Đỗ Thu Vân (2020), Lịch sử Kiến trúc Việt Nam (Từ thời Cổ đại đến năm 1945), Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội;
7. Hoàng Thúc Hào & Phạm Long, Triết lý “Kiến trúc Hạnh phúc” trong thời đại toàn cầu hóa.
Ý kiến của bạn