Phát triển công trình xanh -  Giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu

Phát triển công trình xanh - Giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu

(Vietnamarchi) - Bài viết đề cập đến sự cần thiết của việc phát triển công trình xanh tại Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn biến ngày một phúc tạp, khó lường. Từ những đánh giá về hiệu quả nhiều mặt của công trình xanh, có thể thấy việc xây dựng và phát triển công trình xanh không chỉ để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng kinh tế xanh của Việt Nam, mà còn đáp ứng nhu cầu của người sử dụng. Bài viết đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm phát triển công trình xanh, từ đó góp phần quan trọng vào Chiến lược phát triển kiến trúc Việt Nam, cũng như chiến lược “xanh hoá” ngành Xây dựng, chuyển đổi thị trường xây dựng theo hướng tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ môi trường.
16:26, 05/10/2024

Biến đổi khí hậu và tác động tiêu cực đối với Việt Nam

Biến đổi khí hậu (BĐKH) theo Công ước khung về BĐKH (UNFCCC) là sự thay đổi của khí hậu do sự đóng góp trực hoặc gián tiếp từ các hoạt động của con người làm thay đổi các thành phần của khí quyển, bổ sung thêm cho những biến động khí hậu tự nhiên được quan trắc trong một thời gian khá dài. Nói một cách đơn giản hơn đó là hiện tượng nhiệt độ của khí quyển trái đất tăng lên ngày càng cao do hiệu ứng nhà kính dẫn đến các hiện tượng: Bão, giông lốc và mưa lớn; Lũ, lũ quét và sạt lở đất; nắng nóng; mực nước biển dâng; sa mạc hóa và hạn hán. Các hiện tượng thời tiết bất thường này có ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực đời sống, xã hội, cũng như tác động trực tiếp và gián tiếp tới kiến trúc và con người.

Cùng với đó, tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa mạnh mẽ, sự bùng nổ của các tòa nhà cao tầng, công trình bê tông hóa đã làm gia tăng hiệu ứng nhà kính và tình trạng BĐKH ngày càng rõ rệt.

Trên cơ sở các chỉ số đánh giá về tình hình BĐKH ở Việt Nam (chỉ số về lượng phát thải khí CO2, mức nhiệt độ ở các khu vực, lượng mưa, mực nước biển, xoáy thuận nhiệt đới, mức độ hạn hán và lũ lụt,...) dự báo trong những năm tới (từ nay đến năm 2030), BĐKH ở Việt Nam sẽ diễn ra ngày càng nhanh, phức tạp, khó lường và có những tác động mạnh hơn đối với nước ta so với trước đây. Xu hướng nhiệt độ trung bình ngày càng tăng, nước biển ngày càng dâng cao và hiện tượng thời tiết cực đoan xuất hiện nhiều hơn và với cường độ cũng mạnh hơn.

BĐKH ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Mức độ ảnh hưởng, tác động của BĐKH phụ thuộc vào các kịch bản BĐKH. Những ngành bị tổn thương lớn nhất là nông nghiệp, thủy sản, du lịch...; đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất là người dân ở khu vực miền núi và ven biển, nhất là người nghèo, phụ nữ và trẻ em. BĐKH làm thu hẹp diện tích đất canh tác, giảm sản lượng và năng suất cây trồng, dự báo gây tổn thất khoảng 0,4% GDP vào năm 2030. Hơn nữa, nhiệt độ môi trường tăng làm năng suất lúa giảm, dự báo giảm khoảng 4,2%/năm(2) và mực nước biển dâng 13cm vào năm 2030 sẽ làm năng suất lúa giảm 9%(3). Biến đổi khí hậu làm giảm trữ lượng của các loài thủy sản. Dự báo đến năm 2030, thiệt hại của ngành thủy sản có thể lên đến gần 1,6% GDP(4). BĐKH làm sụt giảm nguồn cung nguyên liệu do nước biển dâng gây ngập lụt cho các khu công nghiệp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm. BĐKH thúc đẩy nhanh hơn chuyển đổi việc làm từ nông nghiệp sang các ngành khác, khiến một bộ phận lớn lao động di cư từ nông thôn ra các đô thị, làm gia tăng áp lực cho khu vực thành thị. BĐKH cũng làm cho các các nguồn tài nguyên ngày càng suy giảm. Suy thoái, cạn kiệt nguồn nước mặt, nước ngầm, thiếu nước, khan hiếm nước trở nên phổ biến hơn. Nguồn cung năng lượng hóa thạch cũng ngày càng cạn kiệt.

Xu hướng công trình xanh ứng phó với biến đổi khí hậu

Công trình xanh là những công trình đạt được hiệu quả cao trong sử dụng năng lượng và vật liệu, giảm thiểu các tác động xấu tới môi trường; đồng thời được thiết kế để có thể hạn chế tối đa những tác động không tốt của môi trường xây dựng tới sức khỏe con người và môi trường tự nhiên thông qua việc sử dụng năng lượng, nước và các nguồn tài nguyên khác một cách hiệu quả; bảo vệ sức khỏe người sử dụng và nâng cao năng suất lao động; giảm thiểu chất thải, ô nhiễm và hủy hoại môi trường.

Cho tới nay, công trình xanh đã trở thành một xu hướng của thời đại. Ở mức độ cao hơn nữa, một số nước đã đưa ra những mô hình công trình “superlow energy building hay “zero energy building” là công trình ít tiêu hao hoặc không tiêu hao năng lượng nhờ khả năng tự tạo ra năng lượng phục vụ chính nó, thậm chí còn cung ứng thêm vào mạng lưới; hay mô hình ‘carbon-neutral building’ là những công trình từ vật liệu xây dựng đến khi đưa vào sử dụng đều không phát ra khí CO2. Như vậy, từ khái niệm công trình xanh ban đầu, thế giới liên tục nâng cao chuẩn xanh, phát triển các mô hình thiết kế và xây dựng mới ngày càng hiệu quả về tài nguyên và môi trường.

Công trình xanh đã chứng tỏ mang lại hiệu quả nhiều mặt: Hiệu quả môi trường, lợi ích xã hội thông qua và các lợi ích kinh tế rõ rệt. Ở Việt Nam, chúng ta đã có một số chủ trương, chính sách lớn thúc đẩy một ngành Xây dựng xanh hơn, có trách nhiệm với môi trường hơn như: Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (năm 2010), Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020 (2014), Chiến lược phát năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (2015), Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (2017), Chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020 (2017), Kế hoạch phát triển đô thị tăng trưởng xanh Việt Nam đến năm 2030 (2018), Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019-2030 (2019). Luật Xây dựng sửa đổi (2020) cũng một lần nữa khẳng định quan điểm khuyến khích phát triển công trình xanh, công trình hiệu quả năng lượng và củng cố vai trò của Bộ Xây dựng trong công tác này. Và gần đây nhất là cam kết của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị COP26 rằng đến năm 2050 Việt Nam sẽ là quốc gia đạt mức phát thải ròng bằng 0 (2021).

Có thể thấy, công trình xanh đang có rất nhiều triển vọng và sẽ trở thành một trong những nội dung trọng tâm của Chiến lược phát triển kiến trúc Việt Nam, cũng như chiến lược “xanh hoá” ngành Xây dựng, chuyển đổi thị trường xây dựng theo hướng tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ môi trường. Việc xây dựng và phát triển công trình xanh không chỉ để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng kinh tế xanh của Việt Nam, mà còn đáp ứng nhu cầu của người sử dụng. Các dự án bất động sản (BĐS) xanh được xây dựng và phát triển đạt chỉ tiêu hạn chế lượng phát thải, mức tiêu thụ năng lượng còn mang lại hiệu quả cao cho cả chủ đầu tư và người dân.

Thách thức đối với phát triển công trình xanh tại Việt Nam

Theo Thống kê của Bộ xây dựng, tính đến hết năm 2022, cả nước mới chỉ có 233 công trình với tổng diện tích khoảng trên dưới 6 triệu mét vuông sàn xây dựng đạt tiêu chí công trình xanh - con số khiêm tốn so với số lượng những dự án được xây dựng trong suốt thập niên vừa qua. Trong khi đó, Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia đứng đầu về mức độ chịu rủi ro lớn nhất của biến đổi khí hậu trong 30 năm tới.

Trong bối cảnh của biến đổi khí hậu, khủng hoảng năng lượng, trào lưu kiến trúc tại các nước phát triển lan sang các nước đang phát triển như Việt Nam được xem như là một mô hình lý tưởng. Những mô hình công trình xanh này khiến các nước đang phát triển choáng ngợp bởi các giải pháp công nghệ tân tiến, vật liệu xây dựng hiện đại. Tuy nhiên việc ứng dụng một cách linh hoạt và phù hợp vào trong điều kiện riêng của từng nước, từng địa phương còn đang là một khoảng trống lớn. Việc hiện thực công trình xanh đang gặp rất nhiều trở ngại.

Tại Việt Nam đã xuất hiện các đơn vị, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực công trình xanh nhưng vẫn chưa có những chính sách và giải pháp quyết liệt, cụ thể để thúc đẩy sự phát triển công trình xanh ở Việt Nam. Có thể nói đây là một trong những nguyên nhân chính khiến thị trường công trình xanh Việt Nam chậm phát triển. Việc thực hiện các công trình xanh ở Việt Nam đang là tự nguyện, tự lực của các chủ đầu tư, không có hướng dẫn, quy định hay khuyến khích gì từ các cơ quan có thầm quyền.

Thêm vào đó, hiện nay Việt Nam chưa có hệ thống đánh giá nào được cơ quan quản lý Nhà nước chính thức ban hành như một công cụ có tính pháp lý để đánh giá, quản lý công trình xanh. Hơn nữa, nhận thức về công trình xanh vẫn còn chưa chính xác. Hầu hết công trình xanh đều được mọi người hiểu phiến diện rằng nghĩa là nhiều cây xanh. Tuy nhiên, ngoài kiến trúc xanh, công trình xanh phải đạt hiệu quả cao trong sử dụng năng lượng, nước, vật liệu… đảm bảo không tác động xấu tới sức khỏe người dân, giảm thiểu chất thải độc hại cho môi trường.

Để đạt được cam kết đặt ra về giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu, đòi hỏi sự tham gia tích cực và sự phối hợp toàn diện giữa chủ đầu tư, nhà phát triển cũng như các Kiến trúc sư. Hiện nay, rào cản lớn nhất của thị trường công trình xanh tại Việt Nam là nhận thức chưa đúng của chủ đầu tư về công trình xanh. Nhiều chủ đầu tư lo ngại việc xây dựng và phát triển công trình xanh sẽ khiến chi phí đầu tư tăng 20 - 30%, thậm chí cao hơn. Theo các nghiên cứu trên thế giới, công trình xanh đòi hỏi tăng vốn đầu tư 3 - 8% so với đầu tư thông thường.

Hiện nay, đã có những công trình xanh tiên phong, chi phí và lợi ích của công trình xanh đã được kiểm chứng, đã xuất hiện những chuỗi công trình xanh, sự cạnh tranh giữa chủ đầu tư bắt đầu xuất hiện. Tuy nhiên, vẫn còn một số khó khăn do các chủ đầu tư lớn chưa sẵn sàng phát triển công trình xanh, tư vấn thiết kế và nhà thầu chưa quan tâm đúng mức, chi phí tư vấn, xây dựng tăng thêm chưa được hiểu đầy đủ, chưa có sự quyết liệt từ cơ quan quản lý.

Những năm gần đây, Bộ Xây dựng cũng đã tổ chức các sự kiện, hội thảo nhằm thúc đẩy xu hướng công trình xanh trong ngành xây dựng Việt Nam. Cụ thể Bộ Xây dựng đã tiếp nối và lan tỏa sự kiện Tuần lễ Công trình xanh Việt Nam. Nhiều công trình xanh của các đơn vị doanh nghiệp, chủ đầu tư đã được vinh danh và khen tặng trong sự kiện. Tuy nhiên việc vinh danh các công trình xanh tại sự kiện cũng gây nên một số ý kiến vì còn thiếu và trùng lặp. Để tránh những tranh luận không đáng có, Bộ Xây dựng nên mời một đơn vị chuyên môn độc lập khách quan tổng hợp và đánh giá. Việc vinh danh càng khách quan và minh bạch càng khuyến khích và động viên được nhiều những đơn vị có đóng góp thực chất cho phát triển công trình xanh tại Việt Nam.

Giải pháp phát triển công trình xanh ứng phó với biến đổi khí hậu

Xây dựng và phát triển công trình xanh là xu hướng tất yếu để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng kinh tế xanh của Việt Nam. Với mục tiêu net-zero vào năm 2050, Việt Nam cũng đã xây dựng các kế hoạch có liên quan phù hợp Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu. Các xu hướng nghiên cứu và phát triển kiến trúc xanh, công trình xanh ngày càng được chú trọng. Điều này giúp hạn chế những tác động của thời tiết cực đoan, đồng thời giảm hiệu ứng nhà kính. Vấn đề BĐKH là vấn đề toàn cầu và liên quan đến nhiều lĩnh vực, hoạt động, vì vậy cần thực hiện các giải pháp đồng bộ liên quan đến kiến trúc để nhằm thích ứng với BĐKH.

Một là, Xây dựng các chiến lược, mục tiêu dài hạn: Xác định các mục tiêu phát triển CTX toàn diện trên phạm vi toàn quốc, có hiệu quả, vững chắc và nhanh, nhằm mục tiêu theo kịp trình độ của các nước phát triển CTX trung bình trên thế giới vào năm 2030. Xây dựng các cơ chế chính sách ưu đãi và khuyến khích phát triển CTX, đặc biệt quan tâm đến các cơ chế nhằm tháo gỡ tất cả các rào cản đối với phát triển CTX, ưu đãi về vật chất và phi vật chất đối với các thành phần kinh tế tư nhân đầu tư vào xây dựng CTX. Xác định mục tiêu và lộ trình cụ thể cho các địa phương xây dựng CTX, tiến tới xây dựng các đô thị xanh, hình thành lối sống xanh.

Hai là, Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật có liên quan nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho phát triển CTX, cần phải làm rõ trong hệ thống pháp luật các vấn đề: Giải thích rõ ràng thuật ngữ CTX, công trình hiệu quả năng lượng; Đề xuất các chính sách ưu đãi nhằm huy động các nguồn lực của xã hội tham gia phát triển CTX, công trình hiệu quả năng lượng.

Ba là, Cần sớm hoàn thiện và nâng cấp hệ thống các quy chuẩn, tiêu chuẩn nhằm hỗ trợ thực hiện thiết kế, thi công và vận hành CTX, công trình hiệu quả năng lượng. Nghiên cứu các tiêu chuẩn kỹ thuật có liên quan đến vật liệu, thiết kế lắp đặt trang thiết bị công trình, đánh giá hiệu quả năng lượng của vật liệu và thiết bị, hiệu quả năng lượng của tòa nhà. Đồng thời xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá chứng nhận CTX phù hợp với điều kiện Việt Nam; bổ sung các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia riêng cho CTX.

Bốn là, Xây dựng, tạo lập và phát triển thị trường CTX: Tuyên truyền, phổ biến, thuyết phục các tầng lớp trong xã hội hiểu về lợi ích của CTX nhằm mục đích kích thích nhu cầu xã hội đối với CTX. Chuyển hướng quan tâm của thị trường bất động sản từ giá thành sang giá trị của công trình. Phát huy thực hiện các “Mua sắm xanh”, đẩy mạnh công cụ “Tín dụng xanh”, “Trái phiếu xanh” để tạo vốn xây dựng CTX. Biểu dương và tôn vinh các nhà đầu tư có trách nhiệm để bảo vệ và gìn giữ môi trường chung.

Năm là, Phát triển sản xuất vật liệu thân thiện môi trường, sử dụng hiệu quả vật liệu xây dựng. Sử dụng vật liệu không phát sinh chất ô nhiễm độc hại đối với sức khỏe của con người. Phát triển sử dụng vật liệu nhẹ, vừa có khả năng cách nhiệt tốt, giảm tải trọng tự thân công trình, do đó giảm chi phí cho kết cấu chịu lực và nền móng công trình. Tái sử dụng và tái chế chất thải (đặc biệt là chất thải xây dựng). Ưu tiên sử dụng vật liệu và các chế phẩm từ vật liệu tự nhiên có thể tái sinh nhanh, sử dụng phế thải của các ngành công nghiệp để sản xuất vật liệu không nung.

Sáu là, Đẩy mạnh công tác đào tạo, nâng cao nhận thức của các nhà quản lý, chủ đầu tư, các doanh nghiệp và người dân hiểu đúng về CTX và những lợi ích mang lại của CTX. Đào tạo nâng cao chất lượng nhân lực, năng lực thiết kế và công nghệ xây dựng CTX. Đào tạo, hướng dẫn việc quản lý, vận hành và bảo dưỡng CTX. Tuyên truyền, trang bị cho người sử dụng những kinh nghiệm quản lý, vận hành và bảo dưỡng CTX, vận hành tất cả các hệ thống thiết bị trong CTX phải được giám sát và quản lý thông minh.

Kết luận

Những năm gần đây, xảy ra những biến đổi lớn lao và bất lợi của khí hậu trái đất. BĐKH đang tiềm ẩn hiểm họa của một nạn ”Đại hồng thuỷ” mà con người nói chung và sự đô thị hóa, sự tham gia của ngành kiến trúc xây dựng nói riêng sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình xảy ra nếu không ý thức được các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu. Chính vì vậy xu hướng thiết kế kiến trúc hiện nay là làm thế nào để ứng phó với BĐKH, có nghĩa là thích ứng, giảm nhẹ, đảm bảo khả năng xoay chuyển linh hoạt, đa dạng trước các tác động xủa BĐKH. Công trình xanh là hướng đi tất yếu của Kiến trúc Việt Nam trong giai đoạn hiện tại, bởi nó đáp ứng được các giá trị của kinh tế, văn hóa, công nghệ, các yêu cầu và chất lượng cuộc sống trong hiện tại và tương lai.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ths. KTS Nguyễn Huy Khanh, Những nhận thức sai lầm về công trình xanh ở Việt Nam, TCKT tháng 12/2016.

2. Trần Văn Hiến, Tổ chức không gian ven biển Nam Trung Bộ thích ứng với BĐKH. Luận án Tiến sỹ.

3. Kỷ yếu hội thảo KH, Viện Kiến trúc nhiệt đới – Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội: Đổi mới giáo trình giảng dậy hướng đến công trình xanh và biến đổi khí hậu, 10/2014

4. Nguyễn Ngọc Hồng Linh (2021), Chính sách thúc đẩy công trình xanh ở các quốc gia Đông Nam Á, Hội đồng công trình xanh Việt Nam (VGBC), Hà Nội

5. Hoàng Mạnh Nguyên, Công trình xanh Việt Nam – những chặng đường phát triển. tạp chí Kiến trúc Việt Nam, số 244 tháng 1/2023

6. Lương Tú Quyên, Nghiên cứu đề xuất lồng ghép các nội dung thích ứng biến đổi khí hậu trong hệ thống chương trình giảng dạy hệ đại học và trên đại học (thí điểm giảng dạy tại trường đại học kiến trúc Hà Nội) – Dự án sự nghiệp kinh tế, 2018.

Bài viết có bổ sung ảnh đại diện minh họa!

Pháp lý xây dựng

Bắc Giang: Phát triển quy hoạch vùng sản xuất góp phần xây dựng NTM bền vững

Bắc Giang, một tỉnh nằm ở phía Bắc Việt Nam, được biết đến với nền nông nghiệp phát triển mạnh mẽ và đa dạng. Với lợi thế về đất đai, khí hậu và nguồn nhân lực, tỉnh Bắc Giang đã xác định việc quy hoạch phát triển vùng chuyên canh là một trong những chiến lược quan trọng nhằm nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp, cải thiện đời sống người dân và thúc đẩy phát triển kinh tế hướng tới xây dựng Nông thôn mới bền vững.

Chuyển đổi xanh trong công trình xây dựng từ định hướng đến các giải pháp Kiến trúc cho công trình

Chuyển đổi xanh trong công trình xây dựng luôn là một trong những vấn đề quan trọng và cấp thiết. Bởi lẽ, điều này giúp thúc đẩy sử dụng bền vững và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên theo tinh thần nương nhờ, tạo ra môi trường bên trong và bên ngoài an toàn, tiện nghi, bảo vệ sức khỏe cho con người góp phần bảo tồn phát huy văn hóa bản địa và hội nhập tiên tiến trên tinh thần không hòa tan… Do đó, tại phiên toàn thể Tuần lễ Công trình xanh Việt Nam 2024 được diễn ra vừa qua tại TP. Hà Nội. TS. KTS Phan Đăng Sơn - Chủ tịch Hội KTS Việt Nam đã có bài tham luận trình bày rõ về chủ đề này.

Phát triển các tòa nhà trung hòa carbon gắn với xu hướng kiến trúc xanh tại các đô thị ven biển

Việc phát triển tòa nhà trung hòa CO2 gắn với xu hướng kiến trúc xanh (KTX) sẽ đạt được mục tiêu kép, đưa xu hướng KTX có động lực phát triển cụ thể hơn, đó là việc góp phần vào sự thành công của các chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu (cam kết mức phát thải ròng về 0 vào năm 2050).

Thúc đẩy phát triển Công trình xanh tại Việt Nam: Kinh nghiệm và giải pháp

Ngày 26/9, tại Hà Nội, trong khuôn khổ Tuần lễ Công trình xanh (CTX) Việt Nam 2024, Bộ Xây dựng phối hợp với UBND Thành phố Hà Nội (TP Hà Nội) đồng chủ trì tổ chức “Diễn đàn thúc đẩy phát triển CTX tại Việt Nam: Kinh nghiệm và giải pháp”.

Kiến trúc Việt Nam hướng tới Net Zero

Biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt. Hậu quả do siêu bão Yagi để lại nhắc nhở cho ta nhiều điều về Xây dựng và Kiến trúc đô thị...

Ý kiến của bạn

PHÁP LUẬT KIẾN TRÚC XÂY DỰNG – TẠP CHÍ KIẾN TRÚC VIỆT NAM
SunGroup
VINGROUP
Rạng Đông
Nam Group
Hưng Thịnh Land
Lumi