
Đền thờ liệt sĩ/Lestudioarchitects
Địa điểm: Huyện Bình Lục, Hà Nam
Kiến trúc sư: Lestudioarchitects
Diện tích: 175m2
Năm: 2021
Ảnh: Hoàng Lê
Tuy nhiên, trái ngược với hình dáng bên ngoài, khi bước vào bên trong, thánh điện được thiết kế mở một khung lớn ở hậu cung, hướng ra mặt nước và cây xanh tự nhiên bao quanh ranh giới phía Bắc của khu đất. Các khía cạnh “đóng” và “mở” trong chuỗi cấu trúc này (đóng[nhà thờ] - mở[cảnh quan] - đóng[ngôi đền] - mở[cảnh quan thiên nhiên]) góp phần nâng cao cảm nhận về những thay đổi liên quan đến trải nghiệm của du khách. Ý thức về chuyển động và hành trình được nhấn mạnh trong quy hoạch tổng thể khi so sánh với các chủ thể kiến trúc, đồng thời phục vụ ý định về tính liên tục của một trục “linh thiêng” ngày càng mở rộng hướng về thiên nhiên trong quá trình quy hoạch tổng thể.
Trong quy hoạch tổng thể này, đặc điểm mặt nước xung quanh hậu cung của tòa nhà là một phần mở rộng hữu cơ của kiến trúc, cho thấy cấu trúc tồn tại trong mối quan hệ khiêm tốn với cảnh quan thiên nhiên (chiều cao và kích thước của tòa nhà được xem xét cẩn thận để phù hợp với cảnh quan xung quanh), đến lượt khung cảnh thiên nhiên vốn có ở đây cũng tạo nên một hậu cung “lớn”, hay phông nền “xanh” bao quanh chính công trình kiến trúc đó. Mối liên hệ này nằm trong mục đích bao trùm của dự án, gợi lại những nhận thức tâm linh ban đầu khi con người nguyên thủy bắt đầu nhận thức được những linh hồn của thiên nhiên và luôn hướng về thiên nhiên trong những cảm xúc thiêng liêng. Ngoài ra, trong “tấm bạt lớn” này, bên cạnh mối quan hệ giữa thiên nhiên và công trình chùa, còn tạo ra một cuộc đối thoại “nhẹ nhàng hơn” giữa ngôi chùa và các công trình kiến trúc hiện hữu (ví dụ như nhà thờ chính). Mối liên hệ này xuất phát từ việc nghiên cứu các quan điểm trong quy hoạch xem xét các tòa nhà, chiều cao, sức chứa hay khối lượng. Tuy nhiên, đó không phải là điểm cần nhấn mạnh ở đây.
Hệ thống biểu tượng được sử dụng trong công trình nhằm gợi lên tinh thần địa phương (mái ngói lớn của chùa hài hòa với khung cảnh làng quê xung quanh, phần nào gợi nhớ đến hình ảnh mái đình làng). Quy mô của công trình cũng gần tương đương với đình chùa của làng. Mối quan hệ giữa “trời – đất – nhân” được thể hiện nhất quán, khá rõ nét theo trục hoành (trước – trong – ngoài) hay trục tung (đế – thân – mái). Phần đế (đất - bao gồm các chi tiết trang trí “địa hình” phía trước tượng thánh), phần thân (con người - không gian chiếm giữ bởi người sử dụng/du khách) và phần mái (trời) với kết cấu nhấn mạnh và phức tạp (thậm chí thừa thãi trong về sức mạnh do thói quen xử lý các kết cấu gỗ truyền thống) nhưng lại thể hiện tinh thần hướng thượng sâu sắc thường thấy ở các kiến trúc cổ (miền Bắc và Việt Nam nói chung).
Vật liệu chính là gạch và gỗ, được xử lý mộc mạc để giống với cuộc sống địa phương. Bên trong ngôi đền, tảng đá cũ được giữ lại từ nền nhà thờ cũ được dùng làm bệ đặt tượng Thánh. Cử chỉ này nhằm tôn vinh các vị tử đạo là nền tảng của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Đồng thời, các biểu tượng cố hữu khác của Kitô giáo vẫn được giữ nguyên (tượng Thánh giá, tượng Chúa Giêsu, v.v.). Toàn bộ hệ thống biểu tượng này được đặt cẩn thận trong một biến thể của kế hoạch chùa học thuật phương Tây (dạng giả lưỡng bội).
Với một tác phẩm tôn giáo, KTS tin rằng chủ nghĩa tượng trưng và đa nghĩa vượt qua những cách giải thích của chủ nghĩa chức năng và chủ nghĩa cấu trúc. Sự nghiên cứu và kết hợp khéo léo của chúng tôi các yếu tố trên góp phần giảm thiểu sự ép buộc trong thiết kế. Ngoài ra, hệ thống biểu tượng còn là lời nhắc nhở về sự mơ hồ trong ý thức tôn giáo của người Việt (theo GS Trần Quốc Vượng).
archdaily
Ý kiến của bạn