Đặc điểm văn hóa kiến trúc trên các di tích tín ngưỡng ở Cù Lao Chàm, Hội An

Đặc điểm văn hóa kiến trúc trên các di tích tín ngưỡng ở Cù Lao Chàm, Hội An

(Vietnamarchi) - Cù Lao Chàm, xã Tân Hiệp, thành phố Hội An không chỉ là Khu dự trữ sinh quyển thế giới mà còn trở thành điểm đến hấp dẫn trên bản đồ du lịch Quảng Nam và khu vực miền Trung. Đây là một quần đảo trải dài theo hình cánh cung gồm 8 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó hòn Lao có diện tích lớn nhất và là nơi duy nhất có người cư trú. Hiện nay, với sự quan tâm bảo tồn, phát triển, Cù Lao Chàm vẫn còn bảo lưu được nhiều giá trị văn hóa bản địa, trong đó có văn hóa kiến trúc. Thật vậy, bất luận là kiến trúc dân dụng hay tôn giáo, tín ngưỡng thì các di tích ở đây vẫn phản ánh hơi thở của văn hóa biển đảo.
14:05, 06/06/2025

 

Kết quả các đợt khai quật, nghiên cứu khảo cổ học cho biết, cách đây trên 3.000 năm, Cù Lao Chàm là địa điểm sinh sống của cư dân Tiền Sa Huỳnh với nhiều dấu tích cư trú rõ rệt. Trong thời kỳ Champa, Cù Lao Chàm là điểm tiền tiêu trên trục đô thị Lâm Ấp – Kinh thành Trà Kiệu – Thánh địa Mỹ Sơn của vương quốc Champa. Thời kỳ Đại Việt, Cù Lao Chàm vẫn là quần đảo tiền tiêu của đạo Thừa tuyên Quảng Nam. Đến thời các Chúa Nguyễn, Cù Lao Chàm thuộc phường Tân Hợp (Hiệp) thuộc huyện Hòa Vang, phủ Điện Bàn, xứ Quảng Nam[1]. Ngày nay, Cù Lao Chàm, xã Tân Hiệp, thành phố Hội An không chỉ là Khu dự trữ sinh quyển thế giới mà còn trở thành điểm đến hấp dẫn trên bản đồ du lịch Quảng Nam và khu vực miền Trung. Đây là một quần đảo trải dài theo hình cánh cung gồm 8 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó hòn Lao có diện tích lớn nhất và là nơi duy nhất có người cư trú. Hiện nay, với sự quan tâm bảo tồn, phát triển, Cù Lao Chàm vẫn còn bảo lưu được nhiều giá trị văn hóa bản địa, trong đó có văn hóa kiến trúc. Thật vậy, bất luận là kiến trúc dân dụng hay tôn giáo, tín ngưỡng thì các di tích ở đây vẫn phản ánh hơi thở của văn hóa biển đảo.

Từ lâu đời, người dân Cù Lao Chàm đã biết dựa vào biển đảo và thích ứng tối đa với môi trường biển đảo để sinh tồn, phát triển. Điều này được thể hiện ở nhiều khía cạnh trong đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng dân cư. Trải qua thời gian dài, các kinh nghiệm được tích lũy tạo nên kho tàng tri thức dân gian về biển đảo vô cùng phong phú, trong đó có cả tri thức về xây dựng các công trình kiến trúc.

Trước đây, làng Tân Hiệp có dân cư thưa thớt, đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn. Theo tư liệu “Quảng Nam xã chí” do Viện Viễn Đông bác cổ thực hiện năm 1943-1944, khi điều tra về “Làng Tân Hiệp” có mô tả về đời sống của người dân trong khoảng thời gian này như sau: “Làng Tân Hiệp có ruộng, có rừng, dân số được 300 nhân mạng. Thổ sản của làng này đặc biệt hơn hết là gỗ, cây củi, mây… cùng nhiều nhất là yến, đồi mồi, xà cừ. Làng có ruộng nên dân làng chuyên về nghề nông một ít, nghề đánh cá cũng thịnh hành, nghề làm củi trong những tháng mà không làm ruộng và không đánh cá. Trong ba nghề này trừ ra, hầu hết dân làng không làm nghề gì khác[2]. “Dẫu biết làng này có trên 20 mẫu ruộng, nhưng vì nghề nông không phải dễ làm như ở trong kia nên chỉ sống được có 3 tháng vì nghề nông. Dân làng có thể sinh nhai được 3 tháng nghề đánh cá. Bởi thế còn 6 tháng kia, không biết lấy gì mà làm ăn[3]. Do bất lợi về địa hình, giao thông cách trở với đất liền, hạn chế về vật liệu xây dựng cũng như đội ngũ thợ lành nghề, người dân phải tận dụng tối đa những thứ sẵn có trên đảo để xây dựng các công trình, tìm giải pháp kiến trúc phù hợp để khắc chế các yếu tố bất lợi của địa hình và thời tiết. Vì thế, các công trình kiến trúc ở Cù Lao Chàm xem ra có phần đơn giản, nhỏ bé, điều đáng chú ý là so với kiến trúc nhà ở thì kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng thường được xem trọng hơn. Để có được như vậy, chúng tôi cho rằng các công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng là công trình của cộng đồng, nhằm phục vụ cho nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng chung của cả cộng đồng và do đó nó có nguồn lực về vật chất, tài chính lớn hơn. Bên cạnh đó, loại hình kiến trúc này nhằm phục vụ số lượng người đông nên phải có tầm vóc to lớn hơn là điều hiển nhiên, cũng biểu hiện niềm tin to lớn của cư dân bản xứ với tôn giáo, tín ngưỡng. Các công trình này phản ánh sắc thái văn hóa tín ngưỡng của cư dân biển đảo, các vị thần được phụng thờ phổ biến, hoặc có thiết chế kiến trúc riêng hoặc là thiết kế kiến trúc phối thờ với các vị thần khác. Xét trên cả hai phương diện về số lượng và mật độ, loại hình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng ở Cù Lao Chàm đều lớn. Theo thống kê[4], trên địa phận Cù Lao Chàm hiện nay có 23 di tích tôn giáo - tín ngưỡng phân bố ở Hòn Lao, Hòn Tai và Hòn Dài, trong đó số lượng di tích tập trung chủ yếu ở Hòn Lao.

Miếu Bà Mộc ở thôn Cấm

Đối với hướng và quy mô, vì điều kiện tự nhiên, hầu hết các công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng và cả nhà ở (truyền thống) thường có quy mô nhỏ hoặc vừa phải, thấp, kết cấu vững chãi, xoay mặt về phía Tây hoặc lệch về phía Tây Nam, lưng tựa vào núi (sườn phía Tây của hòn Lao) nhằm hạn chế tối đa những tác động của thời tiết, ở đây chủ yếu là gió, nhiệt độ, độ ẩm. Điều này dường như không phù hợp với kinh nghiệm dân gian của Việt Nam (làm nhà xoay về hướng Nam), nhưng lại hoàn toàn phù hợp với điều kiện tự nhiên nơi đây. Tất nhiên, trên thực tế vẫn có một vài trường hợp dựng theo các hướng khác, tùy vào điều kiện địa hình cục bộ nơi công trình đó xây dựng hoặc các quan niệm về phong thủy, ở đây chúng tôi muốn nói đến hướng phổ quát của cả cụm dân cư, mà đại diện tiêu biểu nhất là hướng của các ngôi miếu, nhà ở đều có hướng Tây, Tây Nam, xoay mặt về phía đất liền (Hội An).

Về kết cấu, vật liệu, các công trình tín ngưỡng thường được xây kiên cố với tường dày, trần kiểu cuốn vòm để đủ sức chống đỡ hệ mái đặc chắc bằng bê tông gạch vữa. Ngói âm dương được gắn cố định vào mái để hạn chế bong tróc. Hình thức kết cấu này khá vững chãi trước mưa bão, công trình có tuổi thọ cao hơn nếu so với các công trình kiến trúc cùng loại hình có kết cấu đỡ mái bằng gỗ. Tuy nhiên, điều hạn chế của hình thức kết cấu này là quy mô công trình chỉ ở mức độ nhỏ hoặc vừa phải, không gian nội thất không gợi được cảm giác thanh thoát như hệ mái công trình kiến trúc gỗ.

Chi tiết trang trí tại miếu Ngũ hành, Bãi Hương

Một điểm đặc biệt phải kể đến là ở một vài di tích, những vật liệu tự nhiên sẵn có ở bãi biển như vỏ ốc, vỏ sò, xác san hô được tận dụng để phối kết hợp với mảnh chén tạo hình chi tiết trang trí. Như ở miếu Hiệp Hòa thôn Bãi Làng, phần đuôi mỗi vồng ngói âm dương được gắn vỏ điệp xà cừ (có nơi gọi là điệp giấy) thay cho dĩa tráng men để trang trí, màu sắc trở nên óng ánh, lung linh khi có ánh sáng rọi vào. Tại đình Tiền hiền (lăng Tiền hiền) thôn Bãi Làng, mặt trước bình phong đắp phù điêu hình hổ với kiểu dáng đơn giản nhưng vẫn gợi được vẻ uy nghi, đứng trên một sườn dốc tạo hình từ đá san hô. Hay tại miếu Ngũ Hành thôn Bãi Hương, tiền nhân dùng vỏ sò tạo vảy cá của đồ án “cá hóa rồng chầu mặt nguyệt” trên bờ nóc. Ở cuốn thư đầu hồi, vỏ sò lại trở thành những tán lá của cây tùng; san hô làm thân cây, làm phần sườn đồi bên dưới, kết hợp với chú nai được cẩn mảnh chén đứng bên trên thể hiện đồ án “tùng-lộc”. Hình khối tự nhiên của vật liệu được sử dụng khiến đồ án trở nên sinh động, chân thực hơn, đồng thời truyền tải được tâm hồn lãng mạn, sự gắn bó mật thiết với biển cả của cư dân xứ đảo.

Đối với trang trí, các chi tiết trang trí tập trung chủ yếu ở hệ mái và nội thất khu vực thờ tự. Đồ án cá chép và sóng nước, hình ảnh phong cảnh biển đảo hay chim yến được đưa vào trang trí tại bình phong, cổ diêm, quần bàn ở các di tích làm cho sắc màu biển cả thêm đậm nét. Nhiều đồ án vật linh, hoa dây, chữ Hán... thường thấy, mang ý nghĩa cát tường quen thuộc, phản ánh quan niệm tâm linh của người dân địa phương, tuy nhiên, nét vẽ hoặc đắp chạm còn đơn giản, thô mộc. Có lẽ, nó được tạo tác bởi chính bàn tay người dân xứ đảo, nơi mà ngày trước, “về vấn đề học hành thì ở đây vì đường giao thông chưa tiện lợi nên còn kém lắm, chưa được phổ thông[5], trình độ, kỹ năng của những người thợ thủ công vì đó mà còn nhiều hạn chế. Đối với một số ít các công trình có quy mô lớn, là điểm sinh hoạt tín ngưỡng đặc biệt quan trọng của cộng đồng như chùa Hải Tạng, lăng Ông Ngư và lăng Tiền hiền, hệ thống thờ tự, trang trí lại được đầu tư chỉn chu, giá trị thẩm mỹ cao.

Đối tượng thờ cúng, trong số lượng các công trình tín ngưỡng thì các công trình thờ các vị thần thuộc về biển cả, hoặc các vị thần mang yếu tố thủy chiếm số lượng lớn nhất, đơn cử: Đại Càn Quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương; Thiên Y A Na, Chúa Ngọc; Nam Hải Ngọc Lân tôn thần; Phục Ba tướng quân; Ngũ Hành Tiên nương… Đây là một trong những đặc trưng chủ yếu biểu hiện trên kiến trúc bản địa.

Trải qua bao thế hệ sinh sống và gắn kết mật thiết với thiên nhiên, cho đến nay người dân trên đảo vẫn lưu giữ nét hiền hòa, hiếu khách vốn có và bảo tồn được hệ sinh thái quý hiếm, độc đáo cùng nhiều yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể truyền thống đặc trưng của vùng biển đảo. Có thể thấy rằng, dấu ấn văn hóa biển đảo trên các di tích kiến trúc tín ngưỡng ở Cù Lao Chàm phần nào được thể hiện qua quy mô, hình thức kết cấu công trình, vật liệu sử dụng, các chi tiết trang trí đơn giản, mộc mạc và cả đối tượng thờ tự ở các di tích tín ngưỡng phần lớn liên quan đến nghề đánh bắt trên biển. Nhờ đó, các di tích kiến trúc này lại mang nét rất riêng, khác biệt so với các địa phương khác. Đây là nguồn cung cấp nhiều thông tin, tư liệu quan trọng để nghiên cứu về lĩnh vực kiến trúc truyền thống của địa phương, góp phần làm phong phú, đa dạng các loại hình kiến trúc nghệ thuật ở Hội An nói chung và Cù Lao Chàm nói riêng.


[1] Dẫn theo Trung tâm QLBT DSVH Hội An (2014), Thông tin nghiên cứu Cù Lao Chàm, trang 10, 11.

[2] Trung tâm QLBT DSVH Hội An (2020), Làng xã ở Hội An qua tư liệu Địa bạ triều Nguyễn và Quảng Nam xã chí, Nxb Đà Nẵng, trang 167.

[3] Trung tâm QLBT DSVH Hội An (2020), sđd, trang 165.

[4] Dẫn theo UBND thành phố Hội An (2015), Di tích – Danh thắng Hội An, trang 286 - 291.

[5] Trung tâm QLBT DSVH Hội An (2020), sđd, trang 166.

Kiến trúc như một quyền lực mềm: Ngoại giao văn hóa và vai trò của nó trong việc định hình sản xuất kiến ​​trúc

Ngoại giao văn hóa đề cập đến việc sử dụng biểu đạt văn hóa và trao đổi sáng tạo để thúc đẩy sự hiểu biết và xây dựng mối quan hệ giữa các quốc gia. Trong bối cảnh này, kiến ​​trúc từ lâu đã đóng một vai trò đặc biệt. Không chỉ dừng lại ở khía cạnh chức năng và thẩm mỹ, kiến ​​trúc còn là phương tiện giao tiếp, một ngôn ngữ mà qua đó các quốc gia thể hiện bản sắc, giá trị và tham vọng trên trường quốc tế.

Tái thiết kiến ​​trúc như một ký ức văn hóa: Nghịch lý của di sản luôn mới mẻ

Kiến trúc - một trong số ít các hiện vật văn hóa được tạo ra để công chúng sinh sống, bảo tồn và thường có khả năng trường tồn qua nhiều thế kỷ - đóng góp đáng kể vào bản sắc văn hóa của các địa điểm và con người. Trong lịch sử, các công trình thể hiện thái độ, ảnh hưởng và quyền lực của tổ chức; chúng là minh chứng rõ ràng cho văn hóa. Tuy nhiên, tuổi thọ lại làm phức tạp việc bảo tồn: khi một công trình được xây dựng lại, sửa chữa hoặc lắp ráp lại hoàn toàn, thì theo nghĩa nào nó vẫn là cùng một công trình?

Ngôn ngữ của ánh sáng: Cách đọc ánh sáng và bóng tối trong kiến ​​trúc

Hãy tưởng tượng nếu ánh sáng không chỉ mang lại tầm nhìn tối ưu cho các tác vụ mà còn truyền tải ý nghĩa. Các tiêu chuẩn với mức độ lux (độ rọi) khuyến nghị cho các tác vụ thị giác khác nhau đã dẫn đến sự hiểu biết định lượng về ánh sáng. Tuy nhiên, ánh sáng cũng có thể được sử dụng để tạo cảm xúc trong phòng và kiến ​​trúc. Liệu có đủ để coi ánh sáng là ngôn ngữ do kiến ​​trúc sư hoặc nhà thiết kế nội thất truyền tải và được cư dân và người dân tiếp nhận? Việc bổ sung góc nhìn ký hiệu học có thể giúp nhận ra cách ánh sáng và bóng tối góp phần tạo nên ý nghĩa của môi trường xây dựng.

Vai trò của bóng râm trong kiến ​​trúc bản địa

Bất cứ khi nào ánh sáng chiếu vào một bề mặt, sẽ có một cái bóng, bất kể tiêu điểm của nó không đáng kể đến mức nào. Đường viền sẽ khó nhìn thấy, nhưng các hình dạng khác sẽ nổi bật lên trong trò chơi ánh sáng và bóng tối này. Trong trường hợp được chiếu bởi vũ điệu mặt trời, một động lực tiềm ẩn được thêm vào bóng tối có thể được sử dụng để tăng cường các hiện tượng hàng ngày, phá vỡ sự đơn điệu của không gian. Các lỗ mở trực giao trong một hành lang dài hoặc các mảnh dệt trong sân là những ví dụ về các yếu tố xây dựng tạo ra các mảng sáng và tối, mang lại sự thích thú về mặt thẩm mỹ và sự thoải mái về nhiệt cho người sử dụng.

Mạng xã hội đang viết lại du lịch văn hóa kiến ​​trúc như thế nào

Trong lịch sử, giống như các hình thức văn hóa khác, kiến ​​trúc đã được ghi chép, chia sẻ và quảng bá chủ yếu thông qua sách báo. Sách, báo và tạp chí truyền tải những lập luận và hình ảnh của ngành, và bởi vì thực hành kiến ​​trúc phụ thuộc rất nhiều vào giao tiếp thị giác, các tạp chí in đã tạo nên cầu nối giữa các ấn phẩm học thuật và tạp chí thương mại. Trong những thập kỷ sau chiến tranh, những tập sách được xuất bản đẹp mắt đã lưu giữ một quan điểm chung, thể hiện những gì mà lĩnh vực này được coi là đáng thảo luận hoặc mang tính mẫu mực.

Ý kiến của bạn

SunGroup
VINGROUP
Rạng Đông
Nam Group
Hưng Thịnh Land
Vinmikh