Công trình tôn giáo tín ngưỡng xây mới – Những vấn đề bàn luận

(Vietnamarchi) - 20 năm qua, trong hệ thống các công trình tôn giáo tín ngưỡng (TGTN) xây mới, nổi trội hơn cả là những công trình nhà thờ thiên chúa giáo xây mới tại các địa phương. Loại hình này được thiết kế với bố cục, cấu trúc, kiến trúc cảnh quan, vật liệu sử dụng, các mô típ trang trí rất cách điệu, sáng tạo, thậm chí trở thành một “dấu ấn” mới cho nhà thờ thiên chúa giáo ngày nay.
08:00, 01/12/2023

Ở các thể loại công trình TGTN xây mới khác, một số đã kế thừa từ hình thức kiến trúc truyền thống song cũng có rất nhiều công trình lại có ngôn ngữ, hình thức kiến trúc hiện đại, thuận lợi cho các nhu cầu tín ngưỡng, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn mới của cư dân.  Tuy nhiên, vẫn còn đó những bất cập, những khoảng trống từ nhận thức đến hành động, thiếu giải pháp quản lý đồng bộ và hơn cả là một định hướng chiến lược bền vững. Chưa muộn để có một cuộc “cách mạng” về định hướng và giải pháp quản lý thực tiễn, hiệu quả trong nhiệm vụ phát triển và giữ gìn bản sắc văn hóa – kiến trúc dân tộc.

chua-co-8
Sử dụng mầu sắc cho mặt tiền khác truyền thống, chùa Đại Nam, Bình Dương

GIÁ TRỊ THẨM MỸ KIẾN TRÚC – CHỦ ĐẦU TƯ HAY NHÀ THIẾT KẾ?
ThS.KTS. Đỗ Thanh Tùng – Viện trưởng Viện Kiến trúc Quốc gia

Trong xây dựng công trình TGTN mới, hiện người ta đang vận dụng một cách máy móc, thiếu sáng tạo, mới chỉ tập trung mọi nỗ lực nhằm tạo ra một công trình bền vững về công năng và đạt được cái đẹp theo ý thích của chủ đầu tư. Tức là chỉ thoả mãn công năng mà hạn chế khả năng sáng tạo của các kiến trúc sư thiết kế. Bên cạnh những công trình đạt được giá trị thẩm mỹ kiến trúc, còn nhiều công trình mắc lỗi trong thiết kế, xây dựng, thẩm mỹ công trình. Trong khi đó, công tác rà soát thực trạng, nghiên cứu tổng thể cũng như những định hướng cho người dân, người làm nghề và các nhà quản lý chưa có. Đội ngũ kiến trúc sư, kỹ sư xây dựng, công nhân lành nghề có khả năng đáp ứng các yêu cầu đặc thù của công việc cũng như nắm rõ cấu trúc kiến trúc truyền thống chưa được đào tạo bài bản. Các công trình còn xây dựng theo ý tưởng chủ quan của chủ đầu tư… Đó là những nguyên nhân dẫn đến sự lai căng, khập khễnh trong hình thức kiến trúc, trong bố cục của các công trình TGTN xây mới hiện nay.

XU HƯỚNG KIẾN TRÚC NÀO ĐỂ LỰA CHỌN?
TS. Tạ Hoàng Vân – Viện Kiến trúc Quốc gia

Công trình TGTN xây mới được hiểu là những công trình được xây dựng trên địa điểm mới, có hồ sơ thiết kế được cấp phép xây dựng. Thực tế, hiện nay chúng ta chưa có sự thống nhất cho các công trình xây mới này. Các văn bản quản lý ngành Xây dựng mới chỉ coi các công trình TGTN này như một loại hình công trình dân dụng thông thường, chưa nhấn mạnh tính đặc thù về hình thức kiến trúc, chưa có kiểm soát về chất lượng xây dựng công trình, quan tâm đến nhu cầu xây dựng đáp ứng cho các hoạt động tôn giáo hơn là hình thức và thẩm mỹ. Mặt khác những công trình TGTN này mặc dù là loại công trình văn hóa nhưng ngành Văn hóa lại chưa có chế tài kiểm soát và quản lý. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến những bất cập. Mặt khác, trong những xu hướng kiến trúc truyền thống, hoài cổ hay hiện đại… chúng ta sẽ lựa chọn xu hướng nào? Làm sao để công trình TGTN xây mới vừa mang đậm tính tâm linh vừa thể hiện được bản sắc kiến trúc dân tộc đương thời? Vào lúc này, việc rà soát, đánh giá các loại hình công trình TGTN xây mới cần được đặt ra và làm trên diện rộng. Từ những kết quả đó sẽ làm căn cứ để các nhà quản lý ngành Xây dựng đưa ra văn bản quản lý đối với loại hình công trình này, tránh xa đà kiểu “bình cũ rượu mới”.

LỐI ĐI NÀO ĐỂ CHUYỂN TẢI HỒN CỐT CHÙA VIỆT?
KTS. Trần Huy Ánh – Hội KTS Việt Nam

Về vai trò, sức mạnh của thần linh cũng đã xuất hiện trong thời gian vừa qua ngày một nhiều. Người ta đi đền, phủ quá đông, rải tiền công đức khắp nơi, đốt nhiều vàng mã, tranh ấn, cướp lộc mỗi dịp lễ hội đang là vấn đề nhức nhối trong công tác quản lý sinh hoạt tôn giáo mà các phương tiện thông tin đại chúng đã đề cập đến rất nhiều trong thời gian vừa qua. Không chỉ người dân mà nhiều tăng sĩ, tín đồ cũng có những nhận thức văn hóa sai lạc, tha hóa về đạo đức; lợi dụng niềm tin của nhân dân để thu gom tiền công đức không chỉ để xây đền, chùa hoành tráng mà còn trang bị phương tiện, tiện nghi phục vụ cuộc sống riêng mình, xa rời lối sống thanh bạch, thoát tục của người tu hành.
Về mặt kiến trúc, các công trình TGTN xây mới vẫn còn vấp phải những lỗi phổ biến như: Xây đền, chùa, làm tượng, đúc chuông quá lớn, đua tranh theo những kỷ lục phù phiếm; Sao chép mẫu mã công trình mà không có sự nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo trong thiết kế khiến nhiều công trình có kiểu dáng na ná nhau. Cùng một mẫu cổng chùa, đền được nhân bản ở nhiều nơi hoặc đem mẫu cổng chùa dựng vào đền… Việc không tôn trọng ngôn ngữ kiến trúc vùng, miền đã khiến tình trạng xuất hiện ngày một nhiều những ngôi chùa, đền có kiểu dáng kiến trúc ở đồng bằng Bắc Bộ tại các vùng, miền khác (như miền Trung, miền Nam). Tô son, đắp vẽ những mẫu hoa văn xa lạ; đưa những tượng thờ, linh vật ngoại lai vào công trình; Lạm dụng vật liệu xây dựng, thiết bị trang trí hiện đại như lát gạch men trong chùa; sơn tượng bằng màu sơn công nghiệp và lắp đèn điện tử trên tượng…

ĐÀO TẠO CHƯA THEO KỊP

PGS.TS. Nguyễn Hồng Thục – Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội

Nên đánh giá các công trình TGTN xây mới từ hai nhận thức là: Bối cảnh nền kinh tế thị trường và sự chuyển đổi không gian đô thị. Năm 2008, đánh dấu bước chuyển của loài người khi hơn 50% con người sống ở đô thị. Do vậy, các công trình TGTN hiện nay cũng dần chuyển hóa mang tính chất đô thị nhiều. Còn lại, những công trình ở nông thôn cần được bảo vệ, tôn tạo theo hướng phát huy cao giá trị truyền thống. Sở dĩ có tình trạng “loạn kiến trúc” ở các công trình TGTN thời gian qua là do chúng ta chưa đặt cao vai trò của công tác đào tạo cho những người làm trong lĩnh vực này. Các sinh viên được đào tạo ở các trường Kiến trúc – Xây dựng chưa am hiểu nhiều những kiến thức cơ bản về loại hình kiến trúc này, đặc biệt là chùa sẽ là một khoảng trống lớn. Vì vậy, cần sự đánh giá tổng thể để đưa ra các loại hình kiến trúc đặc trưng cho từng loại hình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng. Từ đó tìm ra những tiêu chí cơ bản nhất của nó để khuyến cáo, hướng dẫn cho các địa phương thực hiện, đồng thời khuyến khích những sáng tạo đi lên từ truyền thống đã có chứ không mang tính lai tạp, kệch cỡm.

CẦN MỘT QUY HOẠCH NGÀNH
TS.KTS. Trương Văn Quảng – Viện Quy hoạch Đô thị & Nông thôn Quốc gia

Xây dựng hệ thống các cơ sở TGTN thực sự trở thành một bộ phận cấu thành không gian văn hóa – xã hội của cộng đồng dân cư và làm tăng giá trị các không gian văn hóa – lịch sử và kiến trúc – cảnh quan của đô thị và nông thôn là việc làm cần thiết trong lúc này. Hiện nay, hệ thống văn bản pháp quy trong cải tạo, trùng tu và xây mới công trình TGTN còn thiếu tính đồng bộ, nhất là trong quy hoạch xây dựng. Sự phối hợp đa ngành còn lỏng lẻo. Trong quy hoạch còn mang tính thụ động, dựa trên hệ thống cơ sở tôn giáo có sẵn, đất đai có sẵn… Việc quy hoạch vị trí mới để xây dựng hệ thống cơ sở tôn giáo còn ít được quan tâm, trong khi các tổ chức và cá nhân lại khá chủ động trong việc này. Do vậy, rất cần coi quy hoạch hệ thống cơ sở TGTN là quy hoạch ngành và được cụ thể hóa trong các văn bản pháp quy. Cũng cần lồng ghép nội dung này trong quy hoạch xây dựng vùng, đô thị, nông thôn… để tạo sự phân bố, bình đẳng giữa các loại hình tôn giáo. Công tác quản lý trên tập trung vào 2 nội dung là cấp đất và cấp phép xây dựng. Công tác quy hoạch này sẽ gắn kết không gian tôn giáo với tổng thể không gian sống của cộng đồng dân cư; Giáo dục về tinh thần, góp phần xây dựng hình ảnh và bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc trên địa bàn toàn tỉnh, toàn vùng.

TẠO CHÍNH SÁCH ĐỂ TIẾT KIỆM TÀI NGUYÊN
KTS Nguyễn Phú Đức – Sở Quy hoạch Hà Nội

Xây dựng hệ thống các cơ sở TGTN thực sự trở thành một bộ phận cấu thành không gian văn hóa – xã hội của cộng đồng dân cư và làm tăng giá trị các không gian văn hóa – lịch sử và kiến trúc – cảnh quan của đô thị và nông thôn là việc làm cần thiết trong lúc này. Hiện nay, hệ thống văn bản pháp quy trong cải tạo, trùng tu và xây mới công trình TGTN còn thiếu tính đồng bộ, nhất là trong quy hoạch xây dựng. Sự phối hợp đa ngành còn lỏng lẻo. Trong quy hoạch còn mang tính thụ động, dựa trên hệ thống cơ sở tôn giáo có sẵn, đất đai có sẵn… Việc quy hoạch vị trí mới để xây dựng hệ thống cơ sở tôn giáo còn ít được quan tâm, trong khi các tổ chức và cá nhân lại khá chủ động trong việc này. Do vậy, rất cần coi quy hoạch hệ thống cơ sở TGTN là quy hoạch ngành và được cụ thể hóa trong các văn bản pháp quy. Cũng cần lồng ghép nội dung này trong quy hoạch xây dựng vùng, đô thị, nông thôn… để tạo sự phân bố, bình đẳng giữa các loại hình tôn giáo. Công tác quản lý trên tập trung vào 2 nội dung là cấp đất và cấp phép xây dựng. Công tác quy hoạch này sẽ gắn kết không gian tôn giáo với tổng thể không gian sống của cộng đồng dân cư; Giáo dục về tinh thần, góp phần xây dựng hình ảnh và bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc trên địa bàn toàn tỉnh, toàn vùng.

Mô hình nông thôn mới nâng cao gắn với kinh tế xanh và du lịch cộng đồng: ứng xử với các giá trị kiến trúc truyền thống phục vụ phát triển du lịch

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ, khu vực nông thôn Việt Nam đang trải qua những biến đổi sâu sắc. Không chỉ là nơi sản xuất nông nghiệp, nông thôn ngày nay còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, duy trì sự cân bằng sinh thái và tạo ra không gian sống lý tưởng cho con người. Nhận thức được tầm quan trọng này, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát triển nông thôn một cách toàn diện, bền vững, hướng tới mục tiêu xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại, giàu bản sắc văn hóa.

Mô hình quy hoạch đô thị bền vững và định hướng chiến lược trong điều kiện phát triển mới

Trong bối cảnh đô thị hóa nhanh tại Việt Nam, nhiều thách thức về môi trường, xã hội và kinh tế đã đặt ra yêu cầu cấp thiết về một cách tiếp cận quy hoạch đô thị bền vững, cân bằng giữa phát triển kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Các thành phố như Đà Nẵng, Hội An và một số vùng nông thôn đã tiên phong thử nghiệm mô hình đô thị sinh thái, du lịch cộng đồng và làng thông minh. Đồng thời, Việt Nam tích cực học hỏi kinh nghiệm quốc tế từ Singapore, Hàn Quốc và Hà Lan.

Ưu tiên chuyển đổi công sở dôi dư thành trung tâm chăm sóc người cao tuổi - Chiến lược an sinh cho thời kỳ già hóa dân số

(KTVN 257) Trong bối cảnh cả nước đang từng bước thực hiện sắp xếp lại đơn vị hành chính, dẫn đến dôi dư nhiều trụ sở công quyền, việc sử dụng lại những công trình này không thể chỉ dừng ở tính toán hợp lý về mặt vật chất, mà cần được đặt trong một chiến lược tổng thể, lâu dài và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Trong các phương án chuyển đổi chức năng sử dụng, Nhà nước nên xác định rõ một hướng ưu tiên chiến lược, đó là tận dụng các công sở dôi dư để xây dựng các trung tâm chăm sóc sức khỏe và viện dưỡng lão cho người cao tuổi.

Bài toán nào cho việc chuyển đổi công năng các công sở dôi dư?

(KTVN 257) Sau khi xoá bỏ cấp huyện và sáp nhập tỉnh, ứng xử thế nào với các khu Trung tâm Hành chính của đô thị huyện lỵ và tỉnh lỵ cũ (sau đây gọi tắt là các khu Trung tâm đô thị cũ, viết tắt là khu TTĐT cũ) là một vấn đề rất lớn, được Đảng, Nhà nước, cấp uỷ, chính quyền các cấp và nhân dân đặc biệt quan tâm. Đã có nhiều gợi ý, đề xuất mang tính định hướng các phương án ứng xử đối với các công sở nhưng xem ra còn quá nhiều nội dung cần bàn thảo, phản biện xã hội để có thể lựa chọn được phương án tối ưu. Đặc biệt, dường như hầu hết các ý kiến chỉ nêu ứng xử với các công trình công sở với những gợi ý cho từng công trình mà chưa có gợi ý hay đề xuất nào định hướng tương lai cho tổng thể các khu đô thị cũ (KĐT cũ), trong đó các khu trung tâm đã hết vai trò là trung tâm hành chính. Với góc nhìn của người từng nhiều năm làm công tác quy hoạch đô thị, tôi xin góp một vài ý kiến, trên cơ sở lấy thực tế tại tỉnh Bắc Ninh.

Tránh lãng phí trụ sở sau sắp xếp - cần ứng dụng công nghệ trong quản lý tài sản

(KTVN 257) Trong thế kỷ XXI, thế giới đã phát triển nhanh, làm ra nhiều của cải, nhưng thế giới còn phát triển nhanh hơn trong công nghệ quản lý tài sản (cả công lẫn tư) gọi chung là công nghệ Quản lý cơ sở vật chất (FM - Facilities Management). Toàn bộ tài sản được mô tả trên hệ thống thông tin địa lý số hóa (GIS - Geographic Information System) bao gồm thông tin định vị trên bản đồ vệ tinh, các thông số kỹ thuật, định giá trị vật lý và phi vật lý của tài sản… Chúng ta cần tận dụng các công kỹ nghệ mới để thống kê, rà soát, kiểm đếm tài sản. Từ hồ sơ hiện trạng chi tiết đó, chúng ta sẽ nhận diện được những điểm mạnh, yếu của tài sản mà khai thác tối ưu vào các chức năng mới.

Ý kiến của bạn

SunGroup
VINGROUP
Rạng Đông
Nam Group
Mây trà shan
Vinmikh