Xây dựng cơ sở dữ liệu kiến trúc trong thời đại công nghệ số

Xây dựng cơ sở dữ liệu kiến trúc trong thời đại công nghệ số

(Vietnamarchi) - Kiến trúc là tài sản của cả cộng đồng và xã hội, có vai trò quan trọng đối với diện mạo đô thị, thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, đặc trưng vùng miền hoặc mỗi đô thị. Hoạt động hành nghề kiến trúc góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững.
07:00, 25/12/2024

THỰC TRẠNG CƠ SỞ DỮ LIỆU KIẾN TRÚC TRONG THỜI ĐẠI CÔNG NGHỆ SỐ

Sau hơn 30 năm đổi mới, kiến trúc nước ta có nhiều bước phát triển mạnh mẽ, đa dạng, đạt được nhiều thành tựu nhất định. Nhà nước luôn quan tâm đối với công tác phát triển kiến trúc đô thị và nông thôn bằng việc xây dựng hệ thống văn bản, chính sách liên quan (Định hướng phát triển kiến trúc, Luật Kiến trúc, Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch…).

Hệ thống văn bản, chính sách ban hành tương đối đầy đủ, tuy nhiên việc triển khai thực hiện công tác quản lý không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị tại địa phương chưa được nhận thức và quan tâm đúng mức. Đặc biệt, trong bối cảnh Luật Kiến trúc được ban hành, công tác thống nhất quản lý của Bộ Xây dựng còn gặp khó khăn trong tiếp cận thông tin, thực hiện kiểm tra, giám sát... Sự tham gia của cộng đồng, công tác phản biện xã hội đối với lĩnh vực này còn hạn chế do thiếu nguồn thông tin mang tính chính thức, hoạt động hành nghề còn nhiều bất cập do thiếu cơ sở dữ liệu, thiếu công khai minh bạch ở địa phương.

Quy trình thiết kế kiến trúc trước khi có công nghệ hỗ trợ

Để phát triển nền kiến trúc Việt Nam hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc; bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị kiến trúc truyền thống, tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại đồng thời truyền bá kiến trúc Việt Nam ra thế giới, cần xây dựng bảo tàng dữ liệu, số hóa 3D tất các các công trình kiến trúc có giá trị di sản nghệ thuật kiến trúc truyền thống Việt Nam; đáp ứng việc tuyên truyền, giảng dạy, truyền bá văn hóa và có thể phục dựng 100% bằng công nghệ 3D khi cần thiết; xây dựng dữ liệu hành nghề kiến trúc, đảm bảo tạo điều kiến tối đa cho hoạt động sáng tạo của các KTS; kết nối và hệ thống hóa các công trình kiến trúc, tác phẩm nghệ thuật thế giới để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; khuyến khích, cho phép sử dụng các công nghệ tiên tiến quy chuẩn quốc tế để dự báo, tính toán và thiết kế công trình kiến trúc.

Quy trình thiết kế kiến trúc trong kỷ nguyên công nghệ số

Quan điểm chuyển đổi số trong tổ chức, doanh nghiệp là quá trình thay đổi từ mô hình truyền thống sang doanh nghiệp số bằng cách áp dụng công nghệ mới như dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud)... thay đổi phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn hóa tổ chức.

Việc ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ chủ yếu thực hiện trong các khâu thiết kế, với sự hỗ trợ của các phần mềm là công cụ hữu hiệu để các kiến trúc sư và kỹ sư thể hiện ý tưởng.

Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ thông tin và đặc biệt là cơ sở dữ liệu trong công tác quản lý thông tin kiến trúc, hiện tại chưa đạt hiệu quả cao, việc cập nhật, theo dõi các hoạt động, tra cứu thông tin khi cần thiết là một vấn đề khó khăn. Ngoài ra, tại cơ quan Trung ương Bộ Xây dựng cũng chưa có một đơn vị nào có vai trò là trung tâm tích hợp dữ liệu với vai trò tích hợp hệ thống cơ sở dữ liệu kiến trúc nói riêng hay dữ liệu ngành xây dựng nói chung. 

Một số phần mềm đồ họa phục vụ cho thiết kế kiến trúc hiện nay

Để xây dựng cơ sở dữ liệu kiến trúc phải vừa đáp ứng điều kiện về kỹ thuật công nghệ thông tin đồng thời tuân thủ các quy định của pháp luật về Luật Kiến trúc, Luật Công nghệ thông tin, Luật Lưu trữ, Luật Di Sản văn hóa, Luật Sở Hữu trí tuệ…

ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG CƠ SỞ DỮ LIỆU KIẾN TRÚC

Nhằm mục đích ứng dụng công nghệ thông tin và hệ thống thông tin dữ liệu kiến trúc, nâng cao năng lực quản lý Nhà nước trong công tác kiến trúc, hành nghề kiến trúc, cần triển khai đồng bộ các nội dung sau:

(1) Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về kiến trúc; 

(2) Xây dựng hệ thống hỗ trợ quyết sách về thiết kế kiến trúc;

(3) Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về quy chuẩn, tiêu chuẩn trong công tác thiết kế kiến trúc; 

(4) Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về điển hình hóa trong kiến trúc, quy hoạch;

(5) Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về công trình kiến trúc theo vùng miền;

(6) Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về nhà ở tại các địa phương;

(7) Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về hiện trạng phát triển đô thị tại các địa phương.

Việc xây dựng cơ sở dữ liệu về kiến trúc với định hướng phát triển kiến trúc Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 vừa là nhiệm vụ chính trị vừa là yêu cầu hết sức cấp thiết đối với ngành Xây dựng nói chung và hoạt động kiến trúc nói riêng để hướng tới mục tiêu năm 2030 Việt Nam “là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại”. Để thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ cần cụ thể hóa, làm rõ các yêu cầu đặt ra từ đó xây dựng cơ sở dữ liệu phù hợp điều kiện Việt Nam và đảm bảo phát triển bền vững.

KẾT LUẬN

Cuộc cách mạng công nghệ kỹ thuật số đã và đang làm thay đổi thói quen, cách sống, cách sinh hoạt của mọi người dân trong xã hội. Những thay đổi đó đã dẫn đến sự thay đổi đáng kể trong lĩnh vực kiến trúc. Khi nhu cầu xã hội thay đổi cũng là lúc các công trình kiến trúc có chức năng mới ra đời như: các thư viện, dữ liệu số đang thay cho thư viện giấy, bảo tàng nghệ thuật 3D thay thế cho bảo tàng truyền thống,… 

Có thể nói, công nghệ kỹ thuật số đã góp phần tạo ra nhiều thể loại công trình kiến trúc mới về chức năng, quy mô cũng như hình thức.

Nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp 4.0. Công nghệ kỹ thuật số đã ảnh hưởng, tác động đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội nói chung và kiến trúc nói riêng. Trên thế giới, việc khai thác, ứng dụng công nghệ kỹ thuật số trong việc lưu trữ dữ liệu về kiến trúc đã được nghiên cứu, thực hiện từ lâu. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay, việc ứng dụng công nghệ kỹ thuật số trong xây dựng cơ sở dữ liệu về kiến trúc mới trong giai đoạn bắt đầu. Do vậy, cần có những nghiên cứu tiếp cận, hoàn thiện hệ thống thông tin, chính sách quản lý, không chỉ giúp nâng cao hiệu quả hoạt động của giới kiến trúc mà làm thay đổi một cách căn bản mô hình sản xuất, thiết kế kiến trúc nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội và hội nhập quốc tế./.

Ưu tiên chuyển đổi công sở dôi dư thành trung tâm chăm sóc người cao tuổi - Chiến lược an sinh cho thời kỳ già hóa dân số

(KTVN 257) Trong bối cảnh cả nước đang từng bước thực hiện sắp xếp lại đơn vị hành chính, dẫn đến dôi dư nhiều trụ sở công quyền, việc sử dụng lại những công trình này không thể chỉ dừng ở tính toán hợp lý về mặt vật chất, mà cần được đặt trong một chiến lược tổng thể, lâu dài và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Trong các phương án chuyển đổi chức năng sử dụng, Nhà nước nên xác định rõ một hướng ưu tiên chiến lược, đó là tận dụng các công sở dôi dư để xây dựng các trung tâm chăm sóc sức khỏe và viện dưỡng lão cho người cao tuổi.

Bài toán nào cho việc chuyển đổi công năng các công sở dôi dư?

(KTVN 257) Sau khi xoá bỏ cấp huyện và sáp nhập tỉnh, ứng xử thế nào với các khu Trung tâm Hành chính của đô thị huyện lỵ và tỉnh lỵ cũ (sau đây gọi tắt là các khu Trung tâm đô thị cũ, viết tắt là khu TTĐT cũ) là một vấn đề rất lớn, được Đảng, Nhà nước, cấp uỷ, chính quyền các cấp và nhân dân đặc biệt quan tâm. Đã có nhiều gợi ý, đề xuất mang tính định hướng các phương án ứng xử đối với các công sở nhưng xem ra còn quá nhiều nội dung cần bàn thảo, phản biện xã hội để có thể lựa chọn được phương án tối ưu. Đặc biệt, dường như hầu hết các ý kiến chỉ nêu ứng xử với các công trình công sở với những gợi ý cho từng công trình mà chưa có gợi ý hay đề xuất nào định hướng tương lai cho tổng thể các khu đô thị cũ (KĐT cũ), trong đó các khu trung tâm đã hết vai trò là trung tâm hành chính. Với góc nhìn của người từng nhiều năm làm công tác quy hoạch đô thị, tôi xin góp một vài ý kiến, trên cơ sở lấy thực tế tại tỉnh Bắc Ninh.

Tránh lãng phí trụ sở sau sắp xếp - cần ứng dụng công nghệ trong quản lý tài sản

(KTVN 257) Trong thế kỷ XXI, thế giới đã phát triển nhanh, làm ra nhiều của cải, nhưng thế giới còn phát triển nhanh hơn trong công nghệ quản lý tài sản (cả công lẫn tư) gọi chung là công nghệ Quản lý cơ sở vật chất (FM - Facilities Management). Toàn bộ tài sản được mô tả trên hệ thống thông tin địa lý số hóa (GIS - Geographic Information System) bao gồm thông tin định vị trên bản đồ vệ tinh, các thông số kỹ thuật, định giá trị vật lý và phi vật lý của tài sản… Chúng ta cần tận dụng các công kỹ nghệ mới để thống kê, rà soát, kiểm đếm tài sản. Từ hồ sơ hiện trạng chi tiết đó, chúng ta sẽ nhận diện được những điểm mạnh, yếu của tài sản mà khai thác tối ưu vào các chức năng mới.

Trụ sở cũ - Bài toán mới

(KTVN 257) Việc sáp nhập hàng nghìn đơn vị hành chính cấp xã, huyện và cấp tỉnh không chỉ giúp tinh gọn bộ máy mà còn đặt ra một bài toán lớn: xử lý hàng loạt trụ sở hành chính cũ không còn sử dụng đúng chức năng. Đây không chỉ là câu chuyện về quản lý tài sản, mà còn phản ánh năng lực thể chế, tầm nhìn quy hoạch và trách nhiệm sử dụng hiệu quả nguồn lực công. Nếu được nhìn nhận đúng và xử lý bài bản, những trụ sở dôi dư hoàn toàn có thể trở thành nguồn lực phát triển mới cho cộng đồng, thay vì bị bỏ ngỏ trong sự chờ đợi và lúng túng.

Tiêu chí đánh giá và phương pháp áp dụng công trình hành chính dôi dư sau sáp nhập: Hướng tới phát triển bền vững và hiệu quả xã hội

(KTVN 257) Mỗi công trình hành chính dôi dư không phải là một khối tài sản vô tri, mà là một phần trong đời sống đô thị. Nếu không có con người sử dụng, không có mục tiêu phục vụ rõ ràng, thì giá trị của công trình sẽ hao mòn theo thời gian. Mỗi quyết định chuyển đổi, dù là giữ nguyên chức năng, thay đổi chức năng hay giao cho tổ chức khác quản lý, đều phải xuất phát từ đánh giá cụ thể về bối cảnh không gian, nhu cầu sử dụng thực tế và năng lực vận hành lâu dài. Mọi mô hình nên được xây dựng trên cơ sở thử nghiệm, đo lường, phản hồi, điều chỉnh - chứ không thể quyết định theo cảm hứng, thói quen hay áp lực hình thức.

Ý kiến của bạn

SunGroup
VINGROUP
Rạng Đông
Nam Group
Hưng Thịnh Land
Vinmikh