Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050

Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050

(Vietnamarchi) - Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quy hoạch là hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, xác lập mô hình tăng trưởng mới và phát huy lợi thế của từng vùng kinh tế - xã hội...
10:59, 08/10/2025

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 306/NQ-CP về điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 với mục tiêu là phấn đấu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao...

Phấn đấu GDP bình quân đạt trên 8%/năm thời kỳ 2021 - 2030

Về kinh tế, phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân đạt trên 8%/năm thời kỳ 2021 - 2030. Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 8.500 USD. Tỷ trọng trong GDP của khu vực dịch vụ đạt trên 50%, khu vực công nghiệp - xây dựng trên 40%, khu vực nông, lâm, thủy sản dưới 10%. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt khoảng 7%/năm thời kỳ 2021 - 2030; trong đó giai đoạn 2026 - 2030 đạt trên 8,5%/năm. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt trên 55%.

Phát huy lợi thế của từng vùng kinh tế - xã hội; tập trung phát triển 2 vùng động lực phía Bắc và phía Nam gắn với 2 cực tăng trưởng là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, hành lang kinh tế Bắc - Nam, hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, hành lang kinh tế Mộc Bài - Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hòa - Vũng Tàu với kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, có tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp lớn vào phát triển chung của đất nước.

Phát triển mạnh hạ tầng số, hạ tầng dữ liệu tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 30% GDP...

Về xã hội, duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con); quy mô dân số đạt khoảng 105 triệu người. Chỉ số phát triển con người (HDI) đạt khoảng 0,78. 

Phát triển nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực; thuộc nhóm 10 quốc gia có hệ thống giáo dục đại học tốt nhất châu Á.

Nâng cao chất lượng dịch vụ y tế ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực. Phát triển mạng lưới cơ sở y tế quốc gia đáp ứng yêu cầu chăm sóc, bảo vệ, nâng cao sức khỏe toàn dân, hướng tới mục tiêu công bằng, chất lượng, hiệu quả và hội nhập quốc tế. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong các lĩnh vực đời sống xã hội.

Nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quy hoạch

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quy hoạch là hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia, tập trung vào hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị, hạ tầng nông thôn, hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng văn hóa, xã hội, hạ tầng thủy lợi, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Xác lập mô hình tăng trưởng mới, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính.

Đồng thời, phát triển các vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia quan trọng để hình thành các đầu tàu dẫn dắt sự phát triển của quốc gia. Lựa chọn một số địa bàn, đô thị, vùng có lợi thế đặc biệt để xây dựng trung tâm kinh tế, tài chính, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt với thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội có tính đột phá, có khả năng cạnh tranh quốc tế cao. Đồng thời có cơ chế, chính sách, nguồn lực phù hợp để bảo đảm an sinh xã hội và từng bước phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, khu vực biên giới, hải đảo, góp phần ổn định chính trị, giữ vững quốc phòng, an ninh;

Hình thành và phát triển các hành lang kinh tế theo trục Bắc - Nam, các hành lang kinh tế Đông - Tây, các vành đai kinh tế ven biển; kết nối hiệu quả các cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế, đầu mối giao thương lớn, các đô thị, trung tâm kinh tế, cực tăng trưởng; kết nối hiệu quả với các hành lang kinh tế của khu vực và thế giới.

Phát triển các vành đai công nghiệp - đô thị - dịch vụ tại các vùng động lực, vùng đô thị lớn; đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả liên kết vùng, khai thác hiệu quả không gian phát triển mới sau sáp nhập, sắp xếp đơn vị hành chính các cấp.

Nghị quyết nêu rõ định hướng phát triển không gian kinh tế xã hội gồm: Phân vùng kinh tế - xã hội, định hướng phát triển và liên kết vùng; phát triển các vùng động lực, cực tăng trưởng quốc gia; phát triển các hành lang kinh tế.

Trong đó, về phát triển các vùng động lực, phát triển vùng động lực phía Bắc bao gồm Thành phố Hà Nội và các địa bàn gắn với các tuyến đường Vành đai 4, Vành đai 5, các trục quốc lộ 5, quốc lộ 18, các cao tốc CT01, СТ04, СТ05, СT07, CT09 qua thành phố Hải Phòng và các tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên, Phú Thọ, Ninh Bình, Hưng Yên, Quảng Ninh; trong đó, Thành phố Hà Nội là cực tăng trưởng.

Xây dựng vùng động lực phía Bắc đi đầu trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số; phát huy vai trò trung tâm kinh tế, văn hoá, giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo của quốc gia...

Phát triển vùng động lực phía Nam bao gồm các địa bàn dọc theo trục quốc lộ 22, quốc lộ 13, quốc lộ 1, quốc lộ 51, cao tốc Bắc - Nam phía Tây và đường Vành đai 4 qua Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Tây Ninh; trong đó Thành phố Hồ Chí Minh là cực tăng trưởng. Trong giai đoạn sau năm 2030, nghiên cứu mở rộng phạm vi của vùng động lực.

Xây dựng vùng động lực phía Nam dẫn đầu cả nước và hàng đầu khu vực Đông Nam Á về kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ, y tế, giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Tập trung phát triển mạnh hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, đi đầu trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng, xây dựng kinh tế số, xã hội số.

Phát triển mạnh các dịch vụ tài chính, ngân hàng, khoa học, công nghệ, logistics. Phát triển trung tâm tài chính quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh hướng tới mục tiêu trở thành trung tâm tài chính quốc tế hàng đầu, nâng tầm vị thế của Việt Nam trong mạng lưới tài chính toàn cầu gắn với động lực tăng trưởng kinh tế...

Hình thành, phát triển vùng động lực miền Trung bao gồm khu vực ven biển thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Gia Lai; trong đó thành phố Đà Nẵng là cực tăng trưởng.

Tiếp tục hình thành, phát triển hệ thống đô thị ven biển, các trung tâm du lịch biển; trung tâm công nghiệp lọc hóa dầu và năng lượng quốc gia, công nghiệp ô tô, phụ trợ ngành cơ khí; phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển, cảng hàng không và công nghiệp hàng không; dịch vụ logistics gắn với cảng biển, cảng hàng không...

Hình thành, phát triển vùng động lực đồng bằng sông Cửu Long bao gồm các địa bàn thuộc thành phố Cần Thơ và các tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp gắn với khu vực kết nối các tuyến đường cao tốc (cao tốc Bắc - Nam phía Đông đoạn Cần Thơ - Vĩnh Long, cao tốc An Hữu - Cao Lãnh, cao tốc Bắc Nam phía Tây từ Cao Lãnh đến Rạch Sỏi, cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, Hà Tiên - Rạch Giá - Bạc Liêu) và đặc khu Phú Quốc; trong đó thành phố Cần Thơ là cực tăng trưởng. Trong giai đoạn sau năm 2030, nghiên cứu mở rộng phạm vi của vùng động lực gắn với cảng biển Trần Đề.

Xây dựng vùng động lực đồng bằng sông Cửu Long trở thành trung tâm dịch vụ, du lịch, logistics, công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Hình thành các trung tâm đầu mối về nông nghiệp gắn với các vùng chuyên canh; xây dựng vùng trở thành trung tâm quốc gia về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp và các dịch vụ phục vụ nông nghiệp. Phát triển kinh tế biển, tập trung xây dựng đặc khu Phú Quốc (tỉnh An Giang) thành trung tâm dịch vụ, du lịch sinh thái biển mang tầm quốc tế, kết nối với các trung tâm kinh tế lớn trong khu vực và thế giới.

Hình thành vùng động lực Bắc Trung Bộ bao gồm các địa bàn dọc theo đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, Quốc lộ 1 và đường ven biển, gắn với các đô thị trung tâm tỉnh, đô thị du lịch ven biển và các khu kinh tế ven biển của ba tỉnh Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh.

Xây dựng vùng động lực Bắc Trung Bộ trở thành một trung tâm về công nghiệp lọc hóa dầu, luyện kim, cơ khí chế tạo, công nghiệp ô tô và phụ trợ của cả nước; đồng thời phát triển nhanh các ngành công nghiệp mới như điện tử, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghiệp công nghệ số, các ngành công nghệ cao..., tạo động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội toàn vùng...

Ngoài ra, từng bước xây dựng, hình thành vùng động lực tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên (khu vực Khánh Hòa, Lâm Đồng và vùng phụ cận).

Nghị quyết cũng nêu rõ định hướng phát triển hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia; định hướng khai thác và sử dụng vùng trời; ...

 

Tại sao các quốc gia lại xây dựng thành phố của họ từ đầu?

Hãy tưởng tượng bạn có một tờ giấy trắng để lên kế hoạch tổng thể cho một thành phố hoàn toàn mới; vẽ lại đường sá, nhà cửa, thương mại và không gian công cộng trên một nền giấy mới và tạo nên bản sắc đô thị độc đáo. Mọi nhà quy hoạch đô thị đều mơ ước được thiết kế một thành phố từ con số 0, và may mắn thay, giấc mơ này đang dần trở thành hiện thực.

Hợp tác kiến ​​trúc: Quan hệ đối tác công tư là gì?

Trong những năm gần đây, Quan hệ Đối tác Công-Tư (PPP) đã trở thành một mô hình quan trọng để triển khai các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn trên toàn thế giới. Các quan hệ đối tác này kết hợp sức mạnh của cả khu vực công, đại diện bởi chính phủ hoặc thành phố, và khu vực tư nhân, kết hợp các nguồn lực, chuyên môn và sức mạnh đầu tư của họ. Trong bối cảnh kiến ​​trúc và phát triển đô thị, PPP ngày càng được sử dụng để giải quyết các nhu cầu phức tạp của các thành phố đang phát triển, giúp tài trợ, xây dựng và duy trì các dự án quan trọng mà một trong hai khu vực sẽ khó có thể thực hiện một mình. Nhưng PPP chính xác là gì và chúng hoạt động như thế nào trong môi trường xây dựng? Bài viết này khám phá khái niệm PPP, đưa ra các ví dụ từ khắp nơi trên thế giới để minh họa cách các quan hệ đối tác này đang định hình tương lai của không gian đô thị, đôi khi vượt ra ngoài lợi ích thương mại. Hơn nữa, bằng cách khám phá các dự án khác nhau, bài viết nhằm mục đích xây dựng một khuôn khổ xung quanh các tác động tiềm tàng tích cực và tiêu cực của PPP.

Sau cơn mưa: Phố cổ khô ráo, khu đô thị mới hóa sông

Hà Nội những ngày đầu tháng Mười, mưa lớn kéo dài do ảnh hưởng hoàn lưu bão khiến nhiều tuyến phố ngập nặng. Tuy nhiên, điều khiến không ít người ngạc nhiên là: phố cổ – nơi có tuổi đời cả trăm năm, với hạ tầng “cũ kỹ” – lại thoát nước nhanh chóng, trong khi nhiều khu đô thị hiện đại, quy hoạch mới vài chục năm nay, lại chìm sâu trong biển nước. Ngập úng, nhìn bề ngoài là chuyện của thời tiết, nhưng sâu xa hơn lại là câu chuyện của tư duy quy hoạch đô thị.

Tạo ra một xã hội lý tưởng thân thiện với người đi bộ thông qua việc thiết kế các thành phố 15 phút

Hãy nghĩ về thành phố hoặc thị trấn nơi bạn sống. Bạn mất bao lâu để đi bộ đến cửa hàng tạp hóa? Trường học hoặc nơi làm việc của bạn có đủ gần để đi bộ đến không? Còn công viên công cộng, phòng khám bác sĩ, nhà trẻ, hoặc bất kỳ nơi nào khác mà bạn ghé thăm hàng ngày thì sao? Trong khi một số thành phố đã cân nhắc đến việc sống gần tất cả những nhu cầu thiết yếu này, thì những thành phố khác đang cải tổ chiến lược quy hoạch đô thị và thiết kế các khu phố của họ để thân thiện hơn với người đi bộ với khái niệm "Thành phố 15 phút".

Thiết kế với sự đồng cảm: Kiến trúc cho công bằng xã hội

Kiến trúc từ lâu đã được hiểu là một công cụ mạnh mẽ để định hình môi trường vật lý và động lực xã hội bên trong nó. Tuy nhiên, tiềm năng của nó trong việc thúc đẩy công bằng xã hội thường bị bỏ qua. Thiết kế lấy sự đồng cảm làm động lực mời gọi các kiến ​​trúc sư tiếp cận công việc của họ không chỉ với tư cách là người sáng tạo không gian mà còn là người tạo điều kiện cho sự kết nối giữa con người và hạnh phúc cộng đồng . Cách tiếp cận này tập trung vào việc hiểu những trải nghiệm sống, những khó khăn và khát vọng của con người - đặc biệt là các cộng đồng bị thiệt thòi - và đáp ứng nhu cầu của họ thông qua kiến ​​trúc. Nó vượt ra ngoài tính thẩm mỹ và chức năng, thay vào đó tập trung vào việc tạo ra những không gian nuôi dưỡng phẩm giá, khả năng tiếp cận và công bằng xã hội. Bằng cách ưu tiên sự đồng cảm, các kiến ​​trúc sư có thể thiết kế các môi trường nâng cao cộng đồng, giải quyết sự chênh lệch và tạo ra những không gian bao gồm thúc đẩy sự thay đổi xã hội tích cực theo cách hữu hình, lấy con người làm trung tâm.

Ý kiến của bạn

SunGroup
VINGROUP
Rạng Đông
Nam Group
Hưng Thịnh Land
Vinmikh