Hướng tới sự phát triển bền vững của kiến trúc Việt Nam

Hướng tới sự phát triển bền vững của kiến trúc Việt Nam

(Vietnamarchi) - Chúng ta cùng tin tưởng và mong chờ vào một nền kiến trúc mà “cơ thể” của nó được kiện toàn bởi các tiêu chuẩn xanh, “linh hồn” của nền kiến trúc ấy được dẫn dắt bởi một hệ thống lý luận hoàn chỉnh. Ở đó, người thiết kế được tạo điều kiện thoả sức sáng tạo bởi các nền tảng pháp lý tường minh. Xác định được các mục tiêu để cùng hành động, chúng ta cùng bước vào một mùa xuân vươn mình của đất nước, mùa xuân mới của kiến trúc Việt Nam.
09:00, 25/01/2025
PGS.TS.KTS Vũ Hồng Cương - Trưởng khoa Nội thất & Mỹ thuật công nghiệp - Đại học Kiến trúc Hà Nội

“Mẹ ru cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn”
Nguyễn Duy

Cũng như cơ thể con người ta, kiến trúc muốn phát triển khoẻ mạnh, bền vững đều cần đầy đủ cả hai yếu tố: vật chất (phần xác) và tinh thần (phần hồn). Gần đây, chúng ta nói nhiều đến tính bền vững như một xu hướng tất yếu liên quan tới năng lượng, môi trường. Xu hướng kiến trúc xanh với nhiều tiêu chuẩn về công trình xanh được nhập khẩu và có cái đã nội địa hoá giúp giới thiết kế nước nhà có nhiều điểm tựa khoa học để kiện toàn “phần xác” của các công trình. Tuy nhiên để nuôi “phần hồn” của kiến trúc Việt, ta cần nhiều hơn thế - một hệ thống lý luận thiết thực cho giới KTS. Bên cạnh đó, ở Việt Nam bây giờ, kiến trúc tốt và bền vững chỉ có thể có được khi chúng ta có những quy định pháp quy, chế độ đãi ngộ thoả đáng cho giới thiết kế “cha đẻ” của các công trình.

Các tiêu chuẩn kiến trúc xanh đã và đang giúp kiến trúc Việt Nam kiện toàn phần xác

Một loạt các tiêu chuẩn kiến trúc, công trình xanh hiện hành như LOTUS (Việt Nam), LEED (Hoa Kỳ), EDGE (World Bank), WELL (Hoa Kỳ)… chỉ dẫn và đề cập tới các vấn đề về năng lượng, môi trường, sức khoẻ, con người, là những công cụ hết sức tường minh, cụ thể giúp các KTS Việt Nam đã và đang cho ra đời nhiều công trình với lớp vỏ cũng như các bộ phận chức năng ngày càng chuẩn hoá. Các nhà thiết kế dường như phải vất vả hơn nhiều khi chưa có các tiêu chuẩn này trong việc cân đối giữa công năng và thẩm mỹ. Các quy định được định lượng hoá các yếu tố và thông số kỹ thuật của công trình ngày càng được đòi hỏi ngặt nghèo hơn. Các vấn đề kỹ thuật như, thông gió, chiếu sáng, cấp khí tươi, tái sử dụng nước thải, năng lượng tái tạo… dường như đã dành hết thời gian sáng tác của các KTS. Có thể nói rằng các tiêu chuẩn xanh đã giúp chúng ta kiện toàn về mặt cấu trúc vật chất của công trình. Cơ thể kiến trúc Việt ngày càng tiến bộ văn minh hơn, tiệm cận với kiến trúc quốc tế. Nói cách khác, bối cảnh hội nhập sâu rộng giúp chúng ta có đủ lựa chọn tốt nhất về vật liệu, trang thiết bị, công nghệ xây dựng… Cơ hội văn minh hoá, quốc tế hoá ở khía cạnh vật chất của công trình lại đặt ra những thách thức trong việc kiến tạo các giá trị bản sắc, phong cách - phần hồn của kiến trúc.

Như đã nói trên, các tiêu chuẩn kiến trúc xanh đã và đang giúp kiến trúc Việt Nam kiện toàn phần xác, tuy nhiên sau nhiều năm kể từ ngày thống nhất đất nước, nền kiến trúc của ta dường như vẫn đang tìm kiếm diện mạo và tinh thần riêng cho mình. Bên cạnh những tác phẩm kiến trúc được xem là thành công được ghi nhận qua các giải thưởng, tình trạng kiến trúc có nội dung và hình thức được vay mượn một cách kệch cỡm vẫn diễn ra tràn lan. Các loại lâu đài, biệt phủ hay các công sở nệ cổ giả trang kiểu kiến trúc Pháp vẫn mọc lên với một tốc độ khó kiểm soát. Điều này phản ánh đúng trình độ nhận thức xã hội và vị trí của kiến trúc Việt Nam. Ngoài các nguyên nhân khách quan, có thể nhắc tới một nguyên nhân sâu xa là kiến trúc Việt Nam chưa xây dựng được cho mình một hệ thống lý luận để định hướng, chỉ đường cho các kiến trúc sư hành nghề. Công tác lý luận phê bình kiến trúc ở ta còn thiếu và yếu. Ngành lý luận phê bình kiến trúc không thấy xuất hiện ngay từ các cơ sở đào tạo cho tới các chức danh nghề nghiệp. Thiếu lý luận, kiến trúc của chúng ta đã phát triển một cách khá tự phát với những bước đi dò dẫm trong hiện tại thiếu quan tâm thỏa đáng cho tương lai.

Nhiều tác phẩm đã lấp lánh hồn cốt, nhen nhóm một tinh thần Việt Nam đương đại

Tuy nhiên với điều kiện và tốc độ của một quốc gia đang phát triển, cơ hội thực hành nghề kiến trúc tại Việt Nam vẫn rất lớn. Sau nhiều bài học, trả giá trên thực tế gần đây, qua các diễn đàn, giải thưởng kiến trúc, chúng ta vẫn nhận thấy nhiều tác phẩm lấp lánh hồn cốt, nhen nhóm một tinh thần Việt Nam đương đại. Phong cách kiến trúc Việt Nam chắc chắn sẽ được hình thành khi nó được thiết kế bởi nhiều thế hệ kiến trúc sư Việt Nam trên mảnh đất này. Tuy nhiên, thiếu sự dẫn dắt của lý luận thì con đường tìm về bản sắc và hình thành phong cách như xa hơn, dài hơn. Việc tồn tại nhiều kiến trúc “vô hồn” hay “hồn Trương Ba da hàng thịt” cũng là điều dễ hiểu. Được biết gần đây, Hội Kiến trúc sư Việt Nam đã được giao và thực hiện các đề tài cấp nhà nước về lý luận phê bình và kiến trúc truyền thống… Hy vọng chúng ta sẽ tận dụng tốt cơ hội này sớm ban hành những tài liệu có tính định hướng, những cẩm nang có tính nền tảng làm bệ đỡ cho giới kiến trúc sư vững bước.

Một nền kiến trúc khỏe mạnh trước hết cần dựa vào những “bộ khung” pháp luật tường minh và đúng đắn. Tiếc rằng hiện nay rất nhiều quy định chưa đầy đủ và không còn phù hợp, khiến việc trả công cho kiến trúc sư nhiều khi chưa xứng đáng, gây ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dự án xây dựng. Như ta biết, hiển nhiên chất lượng của một công trình phụ thuộc vào phần lớn ở không gian bên trong, tiện nghi hoàn thiện cũng như đồ đạc nội thất - tức là nội thất của công trình. Thực tế hiện nay, các khái niệm nội thất, thiết kế nội thất, phí thiết kế nội thất, định mức đơn giá nội thất... hầu như vắng bóng trong các quy định pháp quy. Các dự án đầu tư, đặc biệt là đầu tư công vì thế rối ren khi xây dựng, gây nhiều lãng phí. Bên cạnh đó, việc phân bổ tỷ lệ thiết kế phí giữa giai đoạn lập bản vẽ thiết kế cơ sở và bản vẽ kỹ thuật thi công cũng đang lệch lạc, không tạo điều kiện thỏa đáng cho việc nghiên cứu kỹ lưỡng ngay từ giai đoạn lập dự án, dẫn đến nhiều hệ lụy sau này khi dự án đã được phê duyệt. Các quy định vừa không phù hợp vừa thiếu nêu trên tồn tại một cách khó hiểu trong một thời gian dài, cản trở trực tiếp tới sự phát triển trong hành nghề và thành quả của kiến trúc Việt Nam. Vấn đề bức xúc này cần được sớm cải thiện để tạo thuận lợi trong hành nghề và tạo cơ hội cho kiến trúc - nội thất Việt Nam cất cánh.

Linh hồn của nền kiến trúc Việt sẽ sớm được dẫn dắt bởi một hệ thống lý luận hoàn chỉnh

Gần 50 năm từ ngày đất nước thống nhất, kiến trúc Việt Nam đã có những bước phát triển ngày càng tiệm cận với vị thế cần có. Khai thác các thành tựu đạt được, sàng lọc loại bỏ các hướng phát triển còn lệch lạc, lý luận kiến trúc Việt Nam sắp ra đời và sẽ liên tục được hoàn thiện giúp nền kiến trúc sớm đậm đà hồn cốt dân tộc. Các tiêu chuẩn, quy định pháp luật xây dựng cần được cập nhật, bổ sung tiến kịp với nhịp điệu của thực tiễn sẽ tháo gỡ các trói buộc, tạo thêm các điều kiện, động lực để kiến trúc sư Việt Nam có môi trường hành nghề trong sạch, lành mạnh. Chúng ta cùng tin tưởng và mong chờ vào một nền kiến trúc mà “cơ thể” của nó được kiện toàn bởi các tiêu chuẩn xanh, “linh hồn” của nền kiến trúc ấy được dẫn dắt bởi một hệ thống lý luận hoàn chỉnh. Ở đó, người thiết kế được tạo điều kiện thoả sức sáng tạo bởi các nền tảng pháp lý tường minh. Xác định được các mục tiêu để cùng hành động, chúng ta cùng bước vào một mùa xuân vươn mình của đất nước, mùa xuân mới của kiến trúc Việt Nam./.

Ưu tiên chuyển đổi công sở dôi dư thành trung tâm chăm sóc người cao tuổi - Chiến lược an sinh cho thời kỳ già hóa dân số

(KTVN 257) Trong bối cảnh cả nước đang từng bước thực hiện sắp xếp lại đơn vị hành chính, dẫn đến dôi dư nhiều trụ sở công quyền, việc sử dụng lại những công trình này không thể chỉ dừng ở tính toán hợp lý về mặt vật chất, mà cần được đặt trong một chiến lược tổng thể, lâu dài và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Trong các phương án chuyển đổi chức năng sử dụng, Nhà nước nên xác định rõ một hướng ưu tiên chiến lược, đó là tận dụng các công sở dôi dư để xây dựng các trung tâm chăm sóc sức khỏe và viện dưỡng lão cho người cao tuổi.

Bài toán nào cho việc chuyển đổi công năng các công sở dôi dư?

(KTVN 257) Sau khi xoá bỏ cấp huyện và sáp nhập tỉnh, ứng xử thế nào với các khu Trung tâm Hành chính của đô thị huyện lỵ và tỉnh lỵ cũ (sau đây gọi tắt là các khu Trung tâm đô thị cũ, viết tắt là khu TTĐT cũ) là một vấn đề rất lớn, được Đảng, Nhà nước, cấp uỷ, chính quyền các cấp và nhân dân đặc biệt quan tâm. Đã có nhiều gợi ý, đề xuất mang tính định hướng các phương án ứng xử đối với các công sở nhưng xem ra còn quá nhiều nội dung cần bàn thảo, phản biện xã hội để có thể lựa chọn được phương án tối ưu. Đặc biệt, dường như hầu hết các ý kiến chỉ nêu ứng xử với các công trình công sở với những gợi ý cho từng công trình mà chưa có gợi ý hay đề xuất nào định hướng tương lai cho tổng thể các khu đô thị cũ (KĐT cũ), trong đó các khu trung tâm đã hết vai trò là trung tâm hành chính. Với góc nhìn của người từng nhiều năm làm công tác quy hoạch đô thị, tôi xin góp một vài ý kiến, trên cơ sở lấy thực tế tại tỉnh Bắc Ninh.

Tránh lãng phí trụ sở sau sắp xếp - cần ứng dụng công nghệ trong quản lý tài sản

(KTVN 257) Trong thế kỷ XXI, thế giới đã phát triển nhanh, làm ra nhiều của cải, nhưng thế giới còn phát triển nhanh hơn trong công nghệ quản lý tài sản (cả công lẫn tư) gọi chung là công nghệ Quản lý cơ sở vật chất (FM - Facilities Management). Toàn bộ tài sản được mô tả trên hệ thống thông tin địa lý số hóa (GIS - Geographic Information System) bao gồm thông tin định vị trên bản đồ vệ tinh, các thông số kỹ thuật, định giá trị vật lý và phi vật lý của tài sản… Chúng ta cần tận dụng các công kỹ nghệ mới để thống kê, rà soát, kiểm đếm tài sản. Từ hồ sơ hiện trạng chi tiết đó, chúng ta sẽ nhận diện được những điểm mạnh, yếu của tài sản mà khai thác tối ưu vào các chức năng mới.

Trụ sở cũ - Bài toán mới

(KTVN 257) Việc sáp nhập hàng nghìn đơn vị hành chính cấp xã, huyện và cấp tỉnh không chỉ giúp tinh gọn bộ máy mà còn đặt ra một bài toán lớn: xử lý hàng loạt trụ sở hành chính cũ không còn sử dụng đúng chức năng. Đây không chỉ là câu chuyện về quản lý tài sản, mà còn phản ánh năng lực thể chế, tầm nhìn quy hoạch và trách nhiệm sử dụng hiệu quả nguồn lực công. Nếu được nhìn nhận đúng và xử lý bài bản, những trụ sở dôi dư hoàn toàn có thể trở thành nguồn lực phát triển mới cho cộng đồng, thay vì bị bỏ ngỏ trong sự chờ đợi và lúng túng.

Tiêu chí đánh giá và phương pháp áp dụng công trình hành chính dôi dư sau sáp nhập: Hướng tới phát triển bền vững và hiệu quả xã hội

(KTVN 257) Mỗi công trình hành chính dôi dư không phải là một khối tài sản vô tri, mà là một phần trong đời sống đô thị. Nếu không có con người sử dụng, không có mục tiêu phục vụ rõ ràng, thì giá trị của công trình sẽ hao mòn theo thời gian. Mỗi quyết định chuyển đổi, dù là giữ nguyên chức năng, thay đổi chức năng hay giao cho tổ chức khác quản lý, đều phải xuất phát từ đánh giá cụ thể về bối cảnh không gian, nhu cầu sử dụng thực tế và năng lực vận hành lâu dài. Mọi mô hình nên được xây dựng trên cơ sở thử nghiệm, đo lường, phản hồi, điều chỉnh - chứ không thể quyết định theo cảm hứng, thói quen hay áp lực hình thức.

Ý kiến của bạn

SunGroup
VINGROUP
Rạng Đông
Nam Group
Hưng Thịnh Land
Vinmikh