Đưa trung du và miền núi phía Bắc thành vùng phát triển xanh, bền vững

Đưa trung du và miền núi phía Bắc thành vùng phát triển xanh, bền vững

(Vietnamarchi) - Mục tiêu đến năm 2030, vùng trung du và miền núi phía Bắc (Vùng) trở thành vùng phát triển xanh, bền vững và toàn diện, có khung kết cấu hạ tầng cơ bản kết nối nội vùng và với vùng đồng bằng sông Hồng, Thủ đô Hà Nội và tiểu vùng Bắc Trung Bộ…
10:49, 08/05/2024

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 04/5/2024 phê duyệt Quy hoạch vùng trung du và miền núi phía Bắc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Theo đó, phạm vi, ranh giới lập quy hoạch vùng trung du và miền núi phía Bắc bao gồm toàn bộ lãnh thổ đất liền của 14 tỉnh: Cao Bằng, Điện Biên, Bắc Giang, Bắc Kạn, Hà Giang, Hòa Bình, Lạng Sơn, Lai Châu, Lào Cai, Phú Thọ, Sơn La, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái. Phía Bắc giáp với các địa phương cấp tỉnh là Quảng Tây và Vân Nam của Trung Quốc; phía Tây giáp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào; phía Đông và phía Nam giáp vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung.

Mục tiêu đến năm 2030, vùng trung du và miền núi phía Bắc (Vùng) trở thành vùng phát triển xanh, bền vững và toàn diện, có khung kết cấu hạ tầng cơ bản kết nối nội vùng và với vùng đồng bằng sông Hồng, Thủ đô Hà Nội và tiểu vùng Bắc Trung Bộ; phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo và năng lượng; nông nghiệp giá trị cao, hữu cơ, đặc sản, xanh, tuần hoàn; kinh tế cửa khẩu, du lịch; bảo vệ, khôi phục rừng, nhất là rừng đầu nguồn; trồng rừng được đẩy mạnh, kinh tế lâm nghiệp phát triển bền vững; khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên, khoáng sản; bảo vệ môi trường, an ninh sinh thái và an ninh nguồn nước. Bản sắc văn hóa các dân tộc được bảo tồn và phát huy; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được cải thiện và nâng cao; quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc. Phấn đấu đến năm 2030, vùng trung du và miền núi phía Bắc trở thành vùng có thu nhập trung bình cao, một số tỉnh nằm trong nhóm các tỉnh phát triển khá của cả nước, tiệm cận với ngưỡng thu nhập cao.

Phấn đấu 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới

Mục tiêu cụ thể, phấn đấu trong kỳ quy hoạch đến năm 2030, về phát triển kinh tế: Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn vùng (GRDP) bình quân giai đoạn 2021-2030 đạt 8,5 - 9%/năm; quy mô kinh tế vùng đạt khoảng 2.100 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành); tỷ trọng trong GRDP của khu vực nông, lâm, thủy sản chiếm khoảng 12-13%, công nghiệp, xây dựng chiếm 45-46% và dịch vụ chiếm 37-38%; GRDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt trên 140 triệu đồng/người/năm; tổng thu ngân sách nhà nước đạt khoảng 190 nghìn tỷ đồng.

Về phát triển đô thị, nông thôn, đến 2030, Vùng sẽ có tỷ lệ đô thị hóa đạt khoảng 40%; có 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 30% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; mỗi tỉnh có ít nhất 3 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới.Về phát triển xã hội, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt trên 0,75; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 65-70%; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35-40%; tỷ lệ trẻ mẫu giáo đến trường trên 95% và huy động trẻ em trong độ tuổi tiểu học đến trường đạt 100%; tỷ lệ nghèo đa chiều giảm 2-3%/năm (theo tiêu chí chuẩn nghèo của từng thời kỳ)...

Về bảo vệ môi trường, tỷ lệ che phủ rừng của Vùng đạt khoảng 54 - 55%; tỷ lệ dân số đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đạt 95 - 100%, tỷ lệ dân số nông thôn sử dụng nước sạch đáp ứng quy chuẩn là 93 - 95%; tỷ lệ nước thải sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lý đạt 95%; 100% khu công nghiệp, cụm công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn.

Đến 2030, Vùng có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; hoàn thiện các tuyến đường bộ cao tốc, ưu tiên kết nối với Thủ đô Hà Nội, vùng đồng bằng sông Hồng, tiểu vùng Bắc Trung Bộ và với Trung Quốc, Lào. Đẩy nhanh tiến độ, chuẩn bị và khởi công xây dựng các tuyến đường sắt tốc độ cao Lạng Sơn - Hà Nội, Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.

Hạ tầng cấp điện, năng lượng bảo đảm cung ứng đủ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng; hạ tầng thông tin và truyền thông hiện đại đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số. Hoàn thiện hạ tầng thủy lợi, cấp nước, thoát nước và phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Tăng cường liên kết nội vùng, liên vùng và hợp tác quốc tế

Quyết định đã chỉ rõ nhiệm vụ trọng tâm và khâu đột phá trong thời kỳ quy hoạch như sau: Vùng sẽ tập trung phát triển kết cấu hạ tầng, ưu tiên phát triển hệ thống giao thông kết nối với Thủ đô Hà Nội, vùng đồng bằng sông Hồng, tiểu vùng Bắc Trung Bộ và với Trung Quốc, Lào. Đẩy nhanh tiến độ, chuẩn bị và khởi công xây dựng các tuyến đường sắt tốc độ cao Lạng Sơn - Hà Nội, Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Xây dựng, nâng cấp hạ tầng logistics, hạ tầng các khu kinh tế cửa khẩu, các khu du lịch, hạ tầng thông tin, truyền thông và hạ tầng kinh tế số.

Tập trung phát triển khu vực động lực, các cực tăng trưởng, các hành lang kinh tế quan trọng, các ngành kinh tế có lợi thế. Phát triển vành đai công nghiệp - đô thị - dịch vụ, hình thành các cụm liên kết ngành, các chuỗi sản phẩm của vùng tập trung chủ yếu tại Bắc Giang - Thái Nguyên - Phú Thọ - Hòa Bình; phát triển các cực tăng trưởng của vùng tại Thái Nguyên, Bắc Giang, Lào Cai, Sơn La, Lạng Sơn, Phú Thọ. Tập trung phát triển các chuỗi sản phẩm nông nghiệp, du lịch đặc trưng và kinh tế cửa khẩu.

Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là giáo dục nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số, đáp ứng với nhu cầu của từng tiểu vùng, từng khu vực; chú trọng thu hút, sử dụng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có trình độ tại chỗ.

Tăng cường liên kết nội vùng, liên vùng và hợp tác quốc tế. Thực hiện thí điểm một số mô hình, cơ chế, chính sách mới, đặc thù trong phát triển vùng, đặc biệt là đối với các địa bàn, khu vực giữ vai trò quan trọng về bảo vệ rừng, an ninh biên giới, an ninh nguồn nước, an ninh năng lượng…

 

Thiết kế an toàn: Cách các kiến ​​trúc sư và giám định pháp y suy nghĩ lại về an ninh trên mọi quy mô

Nhiều thập kỷ sau sự kiện 11/9 và bạo lực hàng loạt đã gây áp lực buộc các thành phố, tại Hoa Kỳ và trên toàn cầu, phải xem xét lại ý nghĩa của "an toàn". Đó là về rào chắn, cọc tiêu, giám sát? Hay là về niềm tin, khả năng hiển thị, bằng chứng, khả năng phục hồi? Một số dự án đang đối mặt với những câu hỏi này ở nhiều quy mô khác nhau để chứng minh cách kiến ​​trúc và tư duy pháp lý có thể cùng nhau bảo vệ cộng đồng và đời sống dân sự.

Cách vẽ không gian đô thị bằng dữ liệu

Khoa học Đô thị, một ngành nghề đang phát triển nhanh chóng, là nghiên cứu khoa học và kỹ thuật về các hệ thống đô thị. Ngành này sử dụng công nghệ tiên tiến, dữ liệu lớn và vật lý hệ thống phức tạp để giải quyết các thách thức như giảm phát thải carbon, di chuyển và khả năng sinh sống. Về cốt lõi, khoa học đô thị tập trung vào các giải pháp dựa trên dữ liệu. Ngành này sử dụng thống kê, mô hình hóa và trí tuệ nhân tạo để khám phá những động lực tiềm ẩn của các thành phố, từ việc sử dụng năng lượng đến di chuyển của con người. Ngành này áp dụng các chiến lược giảm phát thải carbon, nâng cao hiệu quả và thúc đẩy môi trường đô thị bền vững và linh hoạt hơn.

Hiện tượng ánh sáng trong kiến ​​trúc tôn giáo đương đại

Tầm quan trọng của ánh sáng ban ngày trong không gian vượt xa chức năng chiếu sáng của nó. Ánh sáng là một công cụ sáng tạo được các kiến ​​trúc sư vận dụng để thổi hồn siêu hình vào không gian, tác động đến trạng thái cảm xúc của người sử dụng. Với tác động hiện tượng lên tâm lý con người, ánh sáng và bóng tối đã được vận dụng để khơi gợi cảm giác thần thánh và tâm linh vào đặc điểm của các công trình tôn giáo. Sự tương tác giữa kiến ​​trúc và ánh sáng là một sức mạnh mạnh mẽ, định hình nên trải nghiệm tâm linh sâu sắc hơn.

Thành phố tương lai: Từ thành phố rạng rỡ của Le Corbusier đến "Thành phố thở 2050" của Hà Lan

Trong suốt chiều dài lịch sử, những nhà cải cách tôn giáo và những kiến ​​trúc sư có tầm nhìn xa đã cố gắng hình dung về tương lai của các thành phố: từ mô hình thành phố Palmanova theo phong cách Venice đến khu phức hợp nhà ở nhiều tầng dành cho 5.000 người do kiến ​​trúc sư người Ý Paolo Soleri thiết kế, từ Broadacre City của Frank Lloyd Wright đến Radiant City của Le Corbusier, rất nhiều bản quy hoạch tổng thể đã được xây dựng để minh họa cho một số tham vọng chưa từng có tiền lệ.

Sự an toàn của ánh sáng: Lịch sử ngắn gọn về ánh sáng ở không gian công cộng

Hoạt động đơn giản như đi dạo buổi tối có thể dễ dàng biến từ một hoạt động thư giãn nhàn nhã thành một nỗ lực nguy hiểm chỉ bằng cách loại bỏ một yếu tố khỏi cảnh quan đường phố: chiếu sáng công cộng. Mặc dù không thường được coi là yếu tố quyết định của môi trường đô thị, nhưng chiếu sáng nhân tạo đã đóng một vai trò thiết yếu trong việc định hình bản sắc của các thành phố hiện đại. Kiểm soát tội phạm, sức hấp dẫn của cuộc sống về đêm, sự trỗi dậy của cửa sổ trưng bày, các phong trào cách mạng, chủ nghĩa không tưởng và lý tưởng về công bằng xã hội đều là những khái niệm có sự phát triển gắn liền chặt chẽ với lịch sử của chiếu sáng công cộng. Những tiến bộ công nghệ trong nhiều thế kỷ qua đã liên tục định hình diện mạo và tính biểu tượng của đèn đường. Tuy nhiên, yếu tố này vẫn luôn tồn tại bất biến trong suốt lịch sử của nó.

Ý kiến của bạn

SunGroup
VINGROUP
Rạng Đông
Nam Group
Hưng Thịnh Land
Vinmikh