17:09 18/08/2025 GMT+7

 Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hoàng Long phát biểu tại Lễ phát động.

Nắng nóng cực đoan, nước biển dâng, thiên tai bất thường… đang ngày càng ảnh hưởng nghiêm trọng đến đô thị và chất lượng công trình xây dựng. Kiến trúc, với vai trò định hình không gian sống, buộc phải thích ứng để đảm bảo an toàn, bền vững và tiết kiệm tài nguyên.

Trong bối cảnh đó, vật liệu xây dựng trở thành yếu tố nền tảng, không chỉ quyết định đến chất lượng và tuổi thọ công trình mà còn ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sử dụng năng lượng và mức độ phát thải khí nhà kính.

Theo nhiều chuyên gia, việc lựa chọn vật liệu không còn đơn thuần là kỹ thuật mà chính là lựa chọn định hướng phát triển đô thị, thể hiện tầm nhìn dài hạn của quốc gia trong ứng phó với biến đổi khí hậu.

Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hoàng Long nhấn mạnh, tiết kiệm năng lượng là quốc sách quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh tiêu thụ năng lượng của Việt Nam ngày càng tăng cao. Hiện nay, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm trên 50% tổng tiêu thụ năng lượng quốc gia. Trong đó, tiềm năng tiết kiệm trong các công trình xây dựng, sử dụng vật liệu hiệu quả năng lượng, được ước tính đạt từ 20 - 30%.

Theo các chuyên gia, việc áp dụng vật liệu xây dựng thân thiện môi trường, thiết kế kiến trúc thông minh và ứng dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng không chỉ giúp giảm chi phí vận hành công trình, mà còn góp phần quan trọng trong giảm phát thải khí nhà kính, bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững.

Chương trình Quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019 - 2030 (VNEEP3) đã đặt mục tiêu tiết kiệm 8 - 10% tổng tiêu thụ năng lượng toàn quốc. Đây cũng là định hướng để ngành vật liệu xây dựng và kiến trúc đổi mới, sáng tạo, đưa ra các giải pháp tối ưu từ khâu thiết kế, thi công đến vận hành.

Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Long nhấn mạnh: “Sự chủ động tham gia của cộng đồng doanh nghiệp, từ ngành công nghiệp sản xuất vật liệu đến các đơn vị thiết kế, thi công công trình, cho thấy trách nhiệm xã hội và cam kết mạnh mẽ của doanh nghiệp Việt Nam trước yêu cầu chuyển đổi xanh, phát triển bền vững”.

Gạch tổ – vật liệu xây dựng phổ biến trong nhiều công trình dân dụng hiện nay.

Lịch sử kiến trúc Việt Nam từng ghi nhận nhiều công trình thích nghi tuyệt vời với khí hậu nhờ sử dụng vật liệu tự nhiên như tre, gỗ, đất, ngói… Những vật liệu này không chỉ thân thiện môi trường mà còn giúp công trình điều hòa nhiệt độ, thông gió tự nhiên hiệu quả.

Tuy nhiên, tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa đã đưa xi măng, kính, thép, bê tông cốt thép trở thành vật liệu chủ đạo. Dù mang lại hiệu quả xây dựng cao, các vật liệu này lại tiêu tốn nhiều năng lượng và phát thải lượng lớn CO₂ trong quá trình sản xuất.

Theo Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP), ngành xây dựng và vật liệu chiếm tới 37% tổng phát thải khí nhà kính toàn cầu. Riêng sản xuất xi măng đã đóng góp gần 8% lượng CO₂ toàn cầu – con số đáng báo động.

Tại Việt Nam, sản lượng xi măng năm 2024 vượt 120 triệu tấn, tương ứng với hơn 70 triệu tấn CO₂ thải ra môi trường. Nếu không có chiến lược chuyển đổi, đây sẽ là rào cản lớn cho mục tiêu Net Zero 2050 mà Chính phủ đã cam kết tại COP26.

Để hiểu rõ hơn về vai trò của vật liệu trong kiến trúc thích ứng với biến đổi khí hậu, Viện Kiến trúc Quốc gia, nơi đang thực hiện nhiều đề tài nghiên cứu ứng dụng vật liệu xanh trong thiết kế công trình.

Mẫu gạch làm từ rác thải nhựa, hướng tới kiến trúc bền vững và phát thải thấp.

Gạch nhựa tái chế từ rác thải nhựa – giải pháp vật liệu xanh, góp phần giảm ô nhiễm môi trường.

ThS.KSXD Phạm Quang Khải, Trưởng phòng Nghiên cứu Ứng dụng Khoa học Công nghệ Kiến trúc, mở đầu buổi trò chuyện bằng một nhận định sắc sảo: “Trong kiến trúc hiện đại, vật liệu xây dựng đóng vai trò cốt lõi là nhân tố nền tảng. Nó không chỉ quyết định chất lượng công trình mà khi ta dùng đúng còn giúp tối ưu hóa hiệu quả và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Song song câu chuyện nói nhiều về kiến trúc xanh, công trình các bon thấp, bền vững, thì Vật liệu xanh cần được chú trọng nhiều hơn .” Theo ông Khải, để ứng phó với biến đổi khí hậu, ngành xây dựng không chỉ tiếp tục phụ thuộc vào mô hình vật liệu nặng – nhiệt dung cao – phát thải cao như hiện nay. Cần một hệ sinh thái vật liệu mới: thông minh – tái tạo (có sẵn) – ít phát thải – phù hợp điều kiện tự nhiên, kiến trúc, văn hóa bản địa, để thúc đẩy vật liệu xây dựng xanh, vai trò của chính sách Nhà nước là then chốt. Từ sau Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc lần thứ 26 (COP26), vấn đề các cơ chế chính sách, quy chuẩn, tiêu chuẩn cho công trình xanh, đặc biệt vật liệu xanh đã nhận được sự quan tâm mạnh mẽ từ giới chuyên môn và quản lý, nhà đầu tư, thiết kế kiến trúc không thể tách rời khỏi bối cảnh tự nhiên và yêu cầu phát triển bền vững. Kiến trúc sư, Kỹ sư không chỉ đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư mà còn phải nghiên cứu kỹ các yếu tố khí hậu, điều kiện tự nhiên, văn hóa kiến trúc địa phương, đồng thời hiểu và áp dụng đúng các cơ chế chính sách, các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn về thiết kế xanh, vật liệu xanh.

Dẫn chứng kinh nghiệm quốc tế từ các nước châu âu, Singapore..., chuyên gia Phạm Quang Khải nhấn mạnh vai trò quan trọng của Nhà nước:“Nếu không có chính sách Khuyến khích mạnh mẽ thậm chí là bắt buộc, thị trường sẽ không tự dịch chuyển nhanh. Từ các quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng, đến quy hoạch, thiết kế, cấp phép công trình, sản xuất,vận chuyển vật liệu... cho đến ưu đãi về thuế – tín dụng, tất cả đều cần được đồng bộ để tạo sức bật cho vật liệu xanh.”

Ông kiến nghị xây dựng Lộ trình Quốc gia về Chuyển đổi vật liệu xây dựng xanh song song với lộ trình cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 (Net Zero) được Thủ tướng Phạm Minh Chính đưa ra tại COP26, với các mốc trung hạn  và dài hạn. Trong đó, quy định rõ tỷ lệ sử dụng vật liệu xanh bắt buộc trong các công trình đầu tư công, tỷ lệ ưu đãi cho các công trình khác, định hướng phát triển hệ sinh thái vật liệu xanh mới và kế hoạch loại bỏ dần các loại vật liệu phát thải cao.

"Để áp dụng vật liệu xanh một cách có hiệu quả. Trước tiên cần nghiên cứu các điều kiện tự nhiên, văn hóa, kiến trúc bản địa xây dựng các ý tưởng, giải pháp thiết kế, từ đó mới xác định loại vật liệu phù hợp.", ông Khải chia sẻ.

Ông cũng cho rằng, để vật liệu xanh thực sự được ứng dụng rộng rãi, hiệu quả,cần xây dựng hệ thống cơ chế, pháp lý khuyến khích rõ ràng và mạnh mẽ, đồng thời cũng cần bắt buộc trong một số lĩnh vực cụ thể, và có cơ chế kiểm soát – đánh giá bắt buộc trong quá trình thực hiện các chính sách trên.

Trao đổi với phóng viên, TS. Tô Văn Trường, Nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch Miền Nam – khẳng định:“Không thể nói đến đô thị xanh, đô thị thông minh, nếu chúng ta vẫn xây dựng bằng những vật liệu cũ – phát thải cao, hấp nhiệt lớn và không bền vững. Vật liệu chính là khâu đầu tiên, là nền móng, là ‘linh hồn’ của kiến trúc ứng phó biến đổi khí hậu.”

Theo ông Trường, quá trình quy hoạch không thể tách rời lựa chọn vật liệu. Vật liệu quyết định tới mật độ xây dựng, hệ số hấp thụ nhiệt đô thị, khả năng thích ứng với thiên tai, hiệu quả sử dụng năng lượng, và cả tuổi thọ công trình.

“Muốn phát triển đô thị theo hướng bền vững và đáng sống, thì ngay từ quy hoạch – từ khâu cấp phép, thiết kế cho đến thi công – phải có sự ràng buộc sử dụng vật liệu xanh. Và điều này cần được luật hóa, không thể chỉ là phong trào tự nguyện.”

Ông cũng đề xuất lồng ghép tiêu chí vật liệu xanh vào quy hoạch vùng, quy hoạch đô thị và xây dựng hệ thống đánh giá công trình gắn với phát thải vật liệu. Điều này sẽ giúp phân loại các khu vực phát triển xanh, từ đó tạo lợi thế về cấp phép, tài chính và tín dụng.

Việc xây dựng và phổ biến các hệ thống chứng chỉ "Công trình Xanh" sẽ giúp định lượng hóa giá trị bền vững, tạo ra lợi thế cạnh tranh và thúc đẩy các chủ đầu tư chuyển hướng vì lợi ích kinh tế.

Xây dựng một lộ trình chuyển đổi quốc gia rõ ràng. Để đảm bảo sự thay đổi diễn ra đồng bộ và hiệu quả, Việt Nam cần xây dựng một "Lộ trình Quốc gia về chuyển đổi vật liệu Xây dựng" với các mục tiêu cụ thể, có thể đo lường theo từng giai đoạn 5 năm, 10 năm. Lộ trình này cần xác định rõ: tỷ lệ vật liệu tái chế bắt buộc trong các công trình công, các loại vật liệu cần ưu tiên nghiên cứu và sản xuất trong nước, cũng như kế hoạch loại bỏ dần các vật liệu gây ô nhiễm cao. Một lộ trình rõ ràng sẽ là kim chỉ nam cho cả cơ quan quản lý, doanh nghiệp và các viện nghiên cứu cùng phối hợp hành động, đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi để đáp ứng mục tiêu Net Zero 2050.

Tại Công ty CP Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh, định hướng “xanh hóa” sản xuất đã được triển khai từ nhiều năm qua. Ban lãnh đạo doanh nghiệp xác định, tác động của BĐKH – từ mưa bão bất thường, khí hậu cực đoan đến nước biển dâng – đều khiến kết cấu công trình dễ xuống cấp, giảm tuổi thọ. Vì vậy, việc nghiên cứu, cải tiến sản phẩm vật liệu bền vững, chống chịu khí hậu khắc nghiệt là chiến lược lâu dài.

Dây chuyền sản xuất tại Công ty CP Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh với định hướng “xanh hóa” trong nhiều năm qua.

Theo kỹ sư Nguyễn Sơn (Công ty CP Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh), các loại vật liệu cải tiến có khả năng chịu nhiệt, chịu ẩm, kháng muối, chống ăn mòn, từ đó giảm nguy cơ nứt vỡ, sập đổ và kéo dài tuổi thọ công trình. Vật liệu chất lượng cao không chỉ bảo vệ an toàn cộng đồng, mà còn giúp giảm chi phí duy tu, sửa chữa sau thiên tai.

Đặc biệt, doanh nghiệp đã nghiên cứu thành công đề tài “Ứng dụng đồng xử lý chất thải rắn thông thường làm nguyên nhiên liệu thay thế trong lò nung clinker” từ tháng 3/2021. Nhờ đó, chất thải công nghiệp và sinh hoạt được xử lý, tái sử dụng thay cho 25 – 30% lượng than cám trong sản xuất, vừa giảm chi phí, vừa tiêu thụ lượng lớn rác thải hằng ngày.

Không chỉ tận dụng rác thải làm nguyên liệu, Công ty CP Xi măng và Xây dựng Quảng Ninh còn phát triển các dòng xi măng bền sunphat, kháng mặn, chống ẩm, chịu nhiệt. Đây là những sản phẩm phù hợp cho các công trình ven biển, vùng ngập mặn, thường xuyên chịu tác động của thiên tai.

Các giải pháp này không chỉ giải quyết bài toán kỹ thuật – bảo vệ kết cấu, kéo dài vòng đời công trình – mà còn góp phần giảm phát thải CO₂, phù hợp xu hướng toàn cầu ứng phó BĐKH. Đồng thời, việc giảm chi phí nguyên nhiên liệu đầu vào giúp doanh nghiệp đưa ra sản phẩm có giá thành hợp lý, cạnh tranh trên thị trường trong khi vẫn đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.

Tuy nhiên, thách thức cũng không nhỏ. Chi phí đầu tư ban đầu cao khiến nhiều doanh nghiệp còn dè dặt. Nhận thức thị trường chưa đồng đều; không ít chủ đầu tư vẫn coi VLXD xanh chỉ là “giải pháp phụ”. Bên cạnh đó, cơ chế hỗ trợ tín dụng, ưu đãi thuế cho sản xuất vật liệu xanh hiện chưa thực sự rõ ràng và mạnh mẽ.

TS.KTS Nguyễn Tất Thắng – Viện Kiến trúc Quốc gia – nhấn mạnh: “Muốn vật liệu xanh phát triển mạnh, phải song hành cả ba yếu tố: công nghệ – chính sách – thị trường. Doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư nếu có ưu đãi và đầu ra ổn định. Người dân sẽ chấp nhận khi thấy hiệu quả rõ ràng trong tiết kiệm năng lượng và chi phí vận hành”.

Kiến trúc ứng phó biến đổi khí hậu phải bắt đầu từ gốc – chính là vật liệu. Chọn vật liệu xanh nghĩa là chọn một lộ trình phát triển văn minh và có trách nhiệm. Con đường này tuy có nhiều thách thức về chi phí và kỹ thuật, nhưng với sự quyết tâm chính trị, sự đổi mới của doanh nghiệp và sự thay đổi trong nhận thức của cộng đồng, chúng ta hoàn toàn có thể vượt qua.

Với thế giới, đó là xu thế không thể đảo ngược; với Việt Nam, đó là sự lựa chọn sống còn. Đầu tư cho vật liệu xây dựng xanh hôm nay chính là đầu tư cho sự sống của các thế hệ mai sau.

Kỳ 2: Kiến trúc đô thị thích ứng biến đổi khí hậu – từ thiết kế đến vật liệu

https://vietnamarchi.vn/ky-2-kien-truc-do-thi-thich-ung-bien-doi-khi-hau-tu-thiet-ke-den-vat-lieu-3582.html

TỪ KHÓA #Vật liệu xây dựng xanh #Chìa khóa #kiến trúc bền vững #ứng phó biến đổi khí hậu #
Tin cùng chuyên mục