
Mùa Vu Lan: Gốc rễ một đời người
Nhớ về nguồn cội, nhớ đến công lao của những người cha, người mẹ
Tháng Bảy âm lịch - mùa Vu lan báo hiếu lại về cùng những cảm xúc, suy ngẫm lắng sâu. Trong tâm thức người Việt, lễ Vu lan không chỉ là một nghi lễ mang tính tôn giáo mà đã trở thành dịp để tri ân đấng sinh thành, nhắc mỗi người nhớ về nguồn cội, nhớ đến công lao của những người cha, người mẹ đã âm thầm nuôi ta khôn lớn, dạy ta làm người.

Với riêng tôi, mùa Vu lan năm nay cũng đánh dấu tròn hai mươi năm ngày cha tôi đi xa. Hai mươi năm - thời gian đủ để nhiều điều lắng xuống, nhưng trong ký ức của tôi, hình bóng cha mẹ - những con người bình dị giữa thời loạn lạc vẫn hiện về rõ ràng như một phần không thể tách khỏi trong đời.
Cha tôi sinh ra và lớn lên ở vùng quê lúa Thái Bình - nơi những cánh đồng thẳng cánh cò bay và con người sống thật như đất. Năm tôi cất tiếng khóc chào đời cũng là năm cha tôi gia nhập Đảng Lao động Việt Nam, trở thành chiến sĩ du kích hoạt động bí mật cho Ty Công an Thái Bình trong kháng chiến chống Pháp. Rồi ông đi làm công nhân ở mỏ Cẩm Phả, làm thợ cắt tóc ở thị xã Thái Bình, làm tất cả những gì có ích cho cách mạng và để nuôi sống gia đình. Sau hoà bình, ông tiếp tục công tác ở địa phương, làm Bí thư chi bộ khu phố Trần Phú, thị xã Thái Bình, rồi về hưu, làm Chủ nhiệm Hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp Bắc Sơn.
Cả cuộc đời ông là một chuỗi những chọn lựa giản dị mà bền vững. Không tranh danh, không cầu lợi - ông nổi tiếng là người thanh bạch, yêu Đảng, kính Bác Hồ. Ông không giảng giải đạo đức mà ông sống đạo đức. Trong túi áo ngực của ông luôn có vài tấm ảnh nhỏ: chân dung Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Bí thư Tỉnh uỷ Thái Bình Ngô Duy Đông - những người ông hết mực kính trọng vì đức độ và vì đã từng giúp đỡ gia đình tôi trong những thời khắc cam go.
Khi ông mất tại TP. Hồ Chí Minh vào năm 2005, tang lễ ông được tổ chức giản dị nhưng ấm áp, có sự hiện diện của lãnh đạo địa phương và nhiều người từng quý trọng ông. Những gì ông để lại không phải tài sản mà là tấm gương liêm chính, sống đời tử tế, lòng yêu nước chân thành đến phút cuối đời. Trong buổi tang lễ ấy có ông Tô Bửu Giám, nguyên trợ lý của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đến viếng. Được nghe ông Giám tâm sự, tôi hiểu rõ hơn về cuộc đời hoạt động của cha mình.
Nếu cha tôi là gốc rễ lặng thầm thì mẹ tôi là tán lá đã đi qua bao giông bão mà không bao giờ khuất phục. Năm 1954 - 1955, bà được tổ chức phân công vượt tuyến vào Nam dưới danh nghĩa buôn hàng mậu dịch. Trong chuyến vượt biển lần thứ hai, bà bị địch bắt tại Đà Nẵng, may là đã kịp thủ tiêu toàn bộ tài liệu xuống biển nhưng vẫn bị giam cầm hơn một năm trời và bị tra tấn dã man. Khi về già, đầu bà hơi bị nghiêng và những cơn co giật - di chứng vĩnh viễn từ những trận đòn tra kể cả đổ xà phòng vào miệng nhưng bà chưa từng than vãn một lời.
Sau khi được trả tự do, nhờ sự giúp đỡ của tổ chức và người thân, bà sống trong âm thầm tại Sài Gòn chờ ngày thống nhất. Và bà đã chờ không phải một vài năm mà suốt 21 năm đằng đẵng trong cảnh vợ Nam – chồng Bắc. Đó là thời gian lứa tuổi còn đang rực lửa yêu thương, vậy mà cha mẹ tôi vẫn một lòng son sắt, giữ trọn niềm tin, không trách cứ, không hờn dỗi. Sự chung thủy đó - không cần lời thề nguyền hoa mỹ đã tự nói lên phẩm chất của một thế hệ biết đặt nghĩa tình và lý tưởng lên trên tất thảy.
Sống để tiếp nối những giá trị cao đẹp nhất từ gốc rễ của mình
Tôi vẫn nhớ lần đầu tiên được vào Nam gặp mẹ sau ngày thống nhất, tháng 5 năm 1975. Hai mẹ con ôm nhau khóc như trẻ nhỏ. Sau bao năm xa cách, cái ôm ấy như gỡ bỏ mọi chia lìa, mọi đau đớn. Trong những ngày tôi ở Sài Gòn, mẹ dẫn tôi sang thăm người cậu - một cán bộ hoạt động tình báo nội thành. Ở đó, tôi gặp nhiều nhân vật nổi danh trong ngành tình báo như Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ, Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn, Đại tá Nguyễn Văn Thành, Trung tá Lê Câu... - những người đã sống suốt đời trong bóng tối cho ánh sáng độc lập, tự do của Tổ quốc. Những câu chuyện quanh mâm cơm giản dị hôm ấy không tô vẽ, không "anh hùng hóa" nhưng gieo vào tôi một niềm cảm phục lặng thầm và tự nhủ: mình phải sống sao cho xứng đáng!

Có lần, anh họ tôi - Thiếu tướng Tô Thuận, Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Binh chủng Pháo binh đưa tôi đến thăm Thượng tướng Vũ Chính, Tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo. Trong buổi trò chuyện, ông Chính nhắc lại nhiều người thân trong gia đình tôi từng tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, trong đó có cả người bác của tôi là đồng đội cũ của ông. Phu nhân ông cũng là người Thái Bình nói một câu làm tôi nhớ mãi: “Người quê mình ít nói nhưng sống có hậu. Thẳng như cây cau, bền như đất bãi.”
Càng nghĩ, tôi càng thấm thía: cha mẹ tôi không để lại tiền bạc, cũng không có chức tước cao sang, nhưng họ để lại cho con cái một nền nếp sống tử tế, một lòng tin vững chắc rằng: sống ngay thẳng, chăm chỉ, yêu nước thật lòng thì dù thời thế có đổi thay cũng không bao giờ bị lạc đường. Tôi luôn ghi lòng nhờ sự bảo lãnh của đồng chí Ngô Duy Đông, Bí thư tỉnh uỷ Thái Bình mà năm 1966 tôi mới vượt qua được "khoảng mờ" trong lý lịch là "nhà có nhiều người đi Nam" để được vào học Đại học Bách khoa khóa 11, thực hiện ước mơ cả đời của cha mong tôi thành kỹ sư có ích, sống đàng hoàng. Giấc mơ tưởng nhỏ bé ấy hóa ra là cả một định hướng lớn cho nhân cách làm người.
Giữa thời đại hôm nay - khi thế hệ trẻ có quá nhiều sự lựa chọn, quá nhiều tiện nghi đầy đủ, tôi thường nghĩ: điều đáng sợ không phải là họ sống khác với cha ông, mà là sống không gắn với gốc rễ. Mỗi con người - nếu quên mất công cha nghĩa mẹ, quên mất nền tảng văn hóa của gia đình thì sẽ rất dễ đánh mất mình trước những hào nhoáng tạm thời của xã hội xung quanh.
Thế hệ cha mẹ tôi đã sống trọn một đời với những giá trị không dễ gì có lại: thủy chung, kiên cường, hi sinh âm thầm vì lý tưởng. Họ không nói nhiều về đạo đức mà họ sống đạo đức; họ không kêu gọi cống hiến mà họ tự nguyện dấn thân. Tôi mong những người trẻ hôm nay, giữa thời đại của công nghệ và tốc độ, đừng quên nhìn lại phía sau - nơi có bóng dáng cha mẹ lặng thầm hy sinh, có lịch sử dân tộc từng đòi hỏi lòng yêu nước trung thành và cả mồ hôi, xương máu bao thế hệ. Nhớ để biết mình là ai. Biết để sống xứng đáng. Và sống để tiếp nối những giá trị cao đẹp nhất từ gốc rễ của mình.
Vu lan không chỉ là một ngày lễ mà là dịp để lặng lòng tự hỏi: Ta đã sống thế nào cho xứng đáng với những người đã sinh ra, nuôi dưỡng và hy sinh cho ta không cầu báo đáp? Nếu trong tim mỗi người đều luôn đau đáu câu hỏi ấy thì đạo lý dân tộc Việt sẽ mãi mãi không phai.
Ý kiến của bạn