Đến năm 2030, Bến Tre phấn đấu trở thành tỉnh phát triển khá, hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ

(Vietnamarchi) - Mới đây, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà ký Quyết định 1399/QĐ-TTg ngày 17/11/2023 phê duyệt Quy hoạch tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
14:47, 21/11/2023

Theo đó, phạm vi, ranh giới Quy hoạch tỉnh Bến Tre bao gồm toàn bộ phần lãnh thổ đất liền tỉnh Bến Tre và không gian biển được xác định theo Luật Biển Việt Nam năm 2012, Nghị định số 40/2016/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo.

Đến năm 2050, Bến Tre là tỉnh có hệ thống đô thị hiện đại, thông minh, môi trường sống xanh, sạch (Ảnh: Internet)

Mục tiêu đến năm 2030, Bến Tre trở thành tỉnh phát triển khá của cả nước; có hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ; tập trung phát triển kinh tế biển; công nghiệp chế biến, chế tạo và năng lượng mới gắn bảo vệ môi trường, sinh thái và thích ứng với biến đổi khí hậu; có đô thị hiện đại, nông thôn giàu bản sắc, du lịch thân thiện; quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; người dân có cuộc sống văn minh, ấm no, hạnh phúc. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân đạt 10 - 10,5%/năm; GRDP bình quân đầu người đạt trên 170 triệu đồng; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều còn dưới 2,5%...

Về phương hướng phát triển các ngành, lĩnh vực quan trọng, trong đó tập trung phát triển công nghiệp chế biến sâu các sản phẩm nông nghiệp; công nghiệp gia công kim loại; sản xuất, lắp ráp thiết bị và cụm linh kiện điện, điện cơ, cơ điện tử; công nghiệp sản xuất điện (năng lượng tái tạo, năng lượng mới), công nghiệp hóa chất; Hình thành một số cụm công nghiệp chế biến sâu nông, thủy sản và thực phẩm chất lượng cao; Thu hút đầu tư phát triển mạnh ngành sản xuất thiết bị điện, điện tử, điện gió, khí hóa lỏng… các sản phẩm phục vụ xây dựng đô thị thông minh.

Về nông, lâm nghiệp và thủy sản. Bến Tre trở thành trung tâm đầu mối về nông nghiệp, theo hướng hiện đại, công nghệ cao, xây dựng các mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Hình thành các vùng nuôi trồng thủy, hải sản, chăn nuôi và sản xuất nông nghiệp hữu cơ đạt tiêu chuẩn trong nước và quốc tế, khai thác hải sản có giá trị kinh tế cao; ứng dụng công nghệ số trong quản lý và sản xuất gắn với các cụm công nghiệp chế biến sâu; sản xuất hàng hóa tập trung theo chuỗi giá trị, nâng cao hiệu quả kinh tế của các sản phẩm, truy xuất nguồn gốc, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm.

Về hoạt động kinh tế - xã hội của tỉnh Bến Tre được tổ chức thành 3 vùng kinh tế - xã hội gồm: Vùng ven biển phía Đông của tỉnh (gồm huyện Ba Tri, huyện Bình Đại, huyện Thạnh Phú và không gian biển thuộc địa phận tỉnh Bến Tre); Vùng Bắc sông Hàm Luông (gồm thành phố Bến Tre, huyện Châu Thành, huyện Giồng Trôm): Tập trung phát triển Đô thị - Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp theo hướng công nghệ cao (trụ cột là công nghiệp - đô thị vệ tinh cho các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh); ùng Nam sông Hàm Luông (gồm các huyện Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam và Chợ Lách): Tập trung phát triển Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp theo hướng công nghệ cao (trụ cột là kinh tế nông nghiệp công nghệ cao, du lịch sinh thái) và 5 hành lang kinh tế gồm: 03 Hành lang phát triển theo hướng Tây – Đông, 02 Hành lang phát triển theo hướng Bắc - Nam

Đến năm 2050, Bến Tre là tỉnh phát triển thịnh vượng, trở thành nơi đáng sống có hệ thống đô thị hiện đại, thông minh, môi trường sống xanh, sạch; phấn đấu trở thành đơn vị hành chính đô thị loại I đặc thù, đô thị vệ tinh của Thành phố Hồ Chí Minh; các trụ cột tăng trưởng có trình độ phát triển cao và trở thành động lực phát triển quan trọng của vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả nước; xã hội phát triển hài hòa, văn minh, hiện đại; môi trường, trật tự, kỷ cương, an ninh, an toàn và cảnh quan thiên nhiên được gìn giữ; con người phát triển toàn diện, có cuộc sống phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.

Bài toán kẹt xe ở TPHCM: bắt đầu từ đâu ?

Nhìn ở góc độ đô thị học, giao thông là “hệ tuần hoàn máu” của thành phố. Khi mạch máu tắc, mọi cơ quan khác suy yếu: sản xuất đình trệ, dịch vụ chậm chạp, y tế khẩn cấp bị chậm trễ, chất lượng sống suy giảm. Việc điều trị căn bệnh này không thể tiếp tục theo kiểu chắp vá – mở thêm vài làn đường, nới thêm cây cầu – mà phải xem tổng thể cấu trúc đô thị, hành vi di chuyển và mô hình quản trị giao thông.

Từ kinh nghiệm phát triển đô thị ven sông đến “trục cảnh quan sông Hồng”

Bên ngoài con đê sông Hồng, nơi ít người ngoái nhìn tới, là những xóm nhỏ nơi sinh sống từ những bước chân tha hương của biết bao phận người. Họ đến từ mọi miền, mang theo đôi bàn tay chai sần và ước vọng đổi đời, sống những ngày lam lũ quanh năm chỉ để con cái được học hành tử tế hơn họ. Có người tích cóp cả đời mới dựng được căn nhà tầng đơn sơ; có cả chục con người vẫn ở trong những phòng trọ chưa đầy mười mét vuông. Họ là những người mang cả quê hương lên Hà Nội, làm đủ thứ nghề: thợ hồ, bán hàng rong, chạy xe, làm đủ thứ nghề để chắt chiu từng đồng nuôi con ăn học. Có gia đình dành dụm mấy chục năm mới dựng được căn nhà vững chãi; nhưng cũng có hàng nghìn con người thuê trọ trong những gian phòng ẩm thấp, chỉ đủ kê chiếc giường và cái gác bếp nhỏ - để rồi sáng hôm sau lại hòa vào dòng người mưu sinh. Những xóm thợ, ngõ nhỏ ấy tồn tại trong sức sống đô thị, những con người góp phần không nhỏ cho thành phố. Không ai muốn nhếch nhác, nhưng cũng không đủ điều kiện để thay đổi. Giờ đây, khi thành phố bàn chuyện chỉnh trang, cải tạo hay di dời …thì vấn đề không chỉ nằm ở bản vẽ hay phương án đầu tư, mà nằm ở chỗ: làm thế nào để những con người đã dồn cả đời vào mảnh đất bãi ấy không bị bỏ lại phía sau trong một cuộc thay đổi quá lớn và quá nhanh.

Đô thị hoá không chỉ là mở rộng diện tích, mà là mở rộng tầm nhìn

Ba thập kỷ qua, tốc độ đô thị hóa của Việt Nam được xem là một trong những hiện tượng đáng chú ý của châu Á. Nhiều khu đô thị, dân cư, khu công nghiệp, các công trình cao tầng mọc lên theo nhu cầu phát triển kinh tế cùng sự gia tăng dân số đến với các đô thị lớn. Bên cạnh đó là một hệ quả ngày càng rõ rệt: tần suất và mức độ ngập lụt, triều cường, sạt lở gia tăng sau những đợt bão lũ vừa qua ở một số đô thị lớn như Hà Nội, TPHCM, đặc biệt là ở miền Trung và Đà Nẵng. Điều này cho thấy sự tác động không chỉ đơn thuần là do “thiên tai” mà còn biểu hiện của tính chủ động trong việc hoạch định chiến lược, kế hoạch, quy hoạch chưa sát với thực tế của quy luật tự nhiên, đất, nước, dòng chảy, biến đổi khí hậu. Bài viết này đặt ra câu hỏi: nếu ta nhìn lại các cấp độ Quy hoạch từ các chuyên ngành bằng lăng kính khoa học: vật lý - địa chất - thủy văn - sinh thái, liệu có thể rút ra nguyên lý để giúp chúng ta sống hài hòa hơn với thiên nhiên và giảm thiểu rủi ro ?

Thiết kế an toàn: Cách các kiến ​​trúc sư và giám định pháp y suy nghĩ lại về an ninh trên mọi quy mô

Nhiều thập kỷ sau sự kiện 11/9 và bạo lực hàng loạt đã gây áp lực buộc các thành phố, tại Hoa Kỳ và trên toàn cầu, phải xem xét lại ý nghĩa của "an toàn". Đó là về rào chắn, cọc tiêu, giám sát? Hay là về niềm tin, khả năng hiển thị, bằng chứng, khả năng phục hồi? Một số dự án đang đối mặt với những câu hỏi này ở nhiều quy mô khác nhau để chứng minh cách kiến ​​trúc và tư duy pháp lý có thể cùng nhau bảo vệ cộng đồng và đời sống dân sự.

Cách vẽ không gian đô thị bằng dữ liệu

Khoa học Đô thị, một ngành nghề đang phát triển nhanh chóng, là nghiên cứu khoa học và kỹ thuật về các hệ thống đô thị. Ngành này sử dụng công nghệ tiên tiến, dữ liệu lớn và vật lý hệ thống phức tạp để giải quyết các thách thức như giảm phát thải carbon, di chuyển và khả năng sinh sống. Về cốt lõi, khoa học đô thị tập trung vào các giải pháp dựa trên dữ liệu. Ngành này sử dụng thống kê, mô hình hóa và trí tuệ nhân tạo để khám phá những động lực tiềm ẩn của các thành phố, từ việc sử dụng năng lượng đến di chuyển của con người. Ngành này áp dụng các chiến lược giảm phát thải carbon, nâng cao hiệu quả và thúc đẩy môi trường đô thị bền vững và linh hoạt hơn.

Ý kiến của bạn

SunGroup
VINGROUP
Rạng Đông
Nam Group
Hưng Thịnh Land
Vinmikh