NTM Bắc Giang: Đường thôn, xã rộng và đẹp sau Nghị quyết về phát triển kết cấu hạ tầng giao thông

(Vietnamarchi) - Đến nay hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, trọng tâm là xây dựng giao thông nông thôn đã cơ bản đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là góp phần quan trọng trong thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng nông thôn mới tỉnh Bắc Giang.
10:11, 19/12/2023

Phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới là một trong những nhiệm vụ quan trọng của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện được điều này, nông thôn cần phải phát triển toàn diện theo hướng nông thôn mới, trong đó hệ thống giao thông nông thôn là một bộ phận không thể thiếu, nó vừa là điều kiện, tiền đề, vừa mang tính chiến lược lâu dài để nâng cao đời sống cho người dân nông thôn.

Phát triển hệ thống giao thông nông là mục tiêu quan trọng trong thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội ở Bắc Giang.

Theo đó, Nghị quyết số số 113-NQ/TU ngày 22/7/2016 về phát triển kết cấu hạ tầng giao thông giai đoạn 2016-2020 và định hướng đến năm 2030 của tỉnh Bắc Giang đề ra mục tiêu đến năm 2030, toàn tỉnh phát triển hệ thống kết cấu giao thông tương đối hoàn chỉnh, hiện đại với ít nhất 80% đường thôn, xã được cứng hóa mặt đường. Phấn đấu hoàn thành mục tiêu trên, các địa phương trong tỉnh đã nỗ lực, quyết tâm cao để thực hiện.

Theo báo cáo của Sở Giao thông - Vận tải, đến nay, toàn tỉnh Bắc Giang đã cứng hoá được hơn 1.695/1.724 km đường xã, đạt hơn 98,3%; đường thôn cứng hoá hơn 7.664/8.238, đạt hơn 93%; vượt so với mục tiêu Nghị Quyết số 113 đề ra đến năm 2030 từ 13- 18,3%.

Qua đó đã đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đi lại của nhân dân, thúc đẩy việc giao lưu văn hóa giữa các khu vực trong huyện và giữa huyện với các vùng lân cận; tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục, nhanh chóng, tăng cường mở rộng vùng nguyên liệu, đồng thời thu hút các nhà đầu tư, các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, nhất là các ngành chế biến nông - lâm - thủy sản; mở ra nhiều cơ hội tìm kiếm việc cho lao động nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn… Điển hình như một số huyện như Tân Yên, Lạng Giang, Lục Ngạn…

Ông Nguyễn Đức Hùng, Trưởng Phòng Kinh tế và Hạ tầng huyện Tân Yên cho biết: “Mặt đường thôn trước đây phần lớn rộng 2,5 m nhưng sau khi cải tạo, xây mới được mở rộng lên từ 3,5-7 m. Tổng chiều dài đường xã gần 190 km. Đến thời điểm này, các xã, thị trấn đã cứng hóa bê tông mặt đường đạt 100%. Đường thôn cứng hóa hơn 948/960 km, đạt hơn 98,7%. Trong đó, nhiều xã đã hoàn thành cứng hóa 100% đường thôn, xã như: Cao Xá, Ngọc Thiện, Ngọc Vân, Ngọc Lý…”. Xã Cao Xá có khoảng 7 km đường trục xã, 16 km đường liên thôn, đường trục các thôn dài khoảng 35 km”.

Trong quá trình triển khai các công trình giao thông thiết yếu, mang tính kế nối vùng được ưu tiên nguồn lực thực hiện trước. Nhiều huyện như Tân Yên, Yên Dũng, Lạng Giang… tỷ lệ cứng hóa đường thôn đạt hơn 90%, đường xã đạt 100% tổng chiều dài đường thôn, xã của toàn huyện.

Bắc Giang đã thực hiện tốt tính dân chủ “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng” trong thực hiện Chương trình xây dựng NTM.

Ông Thân Hải Nam, phó chủ tịch UBND huyện Lạng Giang cho biết: Thấy được ý nghĩa, tác động tích cực từ tuyến đường đến đời sống kinh tế, giao thông thuận tiện nên nhân dân các thôn rất ủng hộ, hợp tác giải phóng mặt bằng. Phong trào cứng hóa đường thôn, xã cũng được triển khai rộng khắp. Toàn huyện hiện có 21 xã, thị trấn. Đến nay, các xã đã cứng hóa được hơn 1.117/1.215 km đường trục thôn, ngõ xóm, đạt 92%; cứng hóa 242 km đường xã, đạt 100%”.

Đại diện Sở Giao thông - Vận tải tỉnh Bắc Giang cho biết, xác định giao thông có vai trò quan trọng, thúc đẩy phát triển KT - XH địa phương, thời gian qua, Sở đã tập trung cao để triển khai thực hiện Nghị quyết số 113 của Tỉnh ủy, Kế hoạch của UBND tỉnh về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông giai đoạn 2016 - 2020 và định hướng đến năm 2030. Trong đó, cùng với mở rộng, nâng cấp các tuyến đường tỉnh, Sở tích cực phối hợp với các địa phương đẩy mạnh phong trào cứng hóa đường giao thông nông thôn.

Được biết, để nâng tỷ lệ cứng hóa đường giao thông nông thôn, ngoài nguồn hỗ trợ 100% kinh phí mua xi măng của tỉnh, các huyện, TP còn tích cực bố trí ngân sách đầu tư cứng hóa đường. Cùng với đó là sớm tiến hành rà soát, điều chỉnh kịp thời các quy hoạch, đảm bảo chất lượng, khả thi cho quá trình thực hiện. Trong quá điều chỉnh quy hoạch phải khảo sát kỹ hiện trạng điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của từng đơn vị cấp xã; định hướng ngành kinh tế có thế mạnh của xã trong tương lai, từ đó tổ chức các tuyến đường giao thông kết nối phù hợp.

Với sự nỗ lực của cấp uỷ, chính quyền các cấp cùng với đó nhiều huyện như: Lạng Giang, Tân Yên, Yên Dũng, Việt Yên… còn gắn trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với kết quả thực hiện tiêu chí giao thông trong xây dựng NTM. Đồng thời chỉ đạo cơ quan chuyên môn phối hợp với các xã, thị trấn thường xuyên kiểm điểm tiến độ, đôn đốc đơn vị thi công huy động máy móc, nhân lực tham gia thi công để sớm đưa công trình vào sử dụng.

Pháp lý xây dựng

Kiến trúc cảnh quan đô thị Hà Nội - bảo tồn và phát huy giá trị

Hà Nội (đô thị trong nước) được hình thành và phát triển từ một khu vực đầm lầy với hệ thông thống sông hồ dày đặc. Chính vì vậy, cấu trúc không gian cảnh quan đặc trưng của đô thị Hà Nội được định hình và phát triển dựa trên cấu trúc mặt nước tự nhiên này; trong đó cấu trúc của các dòng sông trong nội đô đóng vai xương sống cấu thành hình thái cấu trúc cảnh quan đô thị cổ Hà Nội (sông Hồng - phía Đông, sông Tô Lịch - phía Bắc và phía Tây và sông Sét - phía Nam).

Hà Nội có rừng... và rừng sẽ lên xanh

(KTVN 252) Việc quy hoạch tạo nên một hệ thống “Không gian xanh” - lá phổi xanh cho đô thị có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình đô thị hoá, biến đổi khí hậu trên thế giới trong đó có Việt Nam không chỉ tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội mà còn là điều kiện quan trọng để tạo nên một đô thị phát triển bền vững. Công viên, vườn hoa... được hiểu đều nằm trong hệ thống “” đô thị. Suy cho cùng, “Không gian xanh”, hay “Công viên rừng” đều có mối quan hệ biện chứng ở nhiều lĩnh vực, nhiều khía cạnh và đều nhắm tới việc cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường sống, văn hoá, giáo dục của đô thị. Đồng thời, tạo ra sự khác biệt trong xây dựng biểu tượng, thương hiệu của từng đô thị khi yếu tố cạnh tranh mang tính toàn cầu đang rất cao.

Hồ Tây - Di sản văn hoá thiên nhiên trong lòng người Hà Nội

(KTVN 252) Hồ Tây, hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất trong nội đô được Mẹ thiên nhiên ban tặng cho Hà Nội, như một phần ruột thịt của sông Cái (sông Hồng) được cắt ra. Từ ngàn đời nay, Hồ Tây với người Hà Nội vẫn luôn là những huyền tích bước ra từ cuốn sách giáo khoa, hoặc đọng lại trong tiếng mẹ ru, hoặc vương vấn trong những vần thơ và câu hát. Hồ Tây với người Hà Nội hôm nay là một ví dụ minh họa điển hình trong lý thuyết về không gian nơi chốn, nơi để hoài niệm và tìm về, nơi ký ức luôn được cảm nhận, thẩm thấu bằng nhìn, bằng nghe, bằng nếm, chạm được vào và cả bằng hơi thở. 

Giá trị cảnh quan đô thị Hà Nội - Kế thừa và phát huy

(KTVN 252) Cảnh quan đô thị Hà Nội biểu lộ một sắc thái riêng biệt của bản sắc đô thị Hà Nội, hiển thị ở độ rộng thoáng, bao quát của không gian và độ phân bố đều trong cấu trúc đô thị. Đó là những giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật cảnh quan nổi trội trong bảng màu bản sắc đô thị Hà Nội. Cảnh quan đô thị thì hiện hữu ở mọi nơi. Trong tương lai Hà Nội sẽ là một đô thị hiện đại, nhưng một đô thị càng hiện đại là đô thị càng giữ chặt trong mình cội nguồn lịch sử, càng hiện minh rõ bản sắc đô thị qua Cảnh quan đô thị.

Nhìn lại hình thức kiến trúc Hà Nội - Những chặng đường sáng tác

(KTVN 252) Công cuộc phục hồi kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất và phát triển, mở rộng Thủ đô được đặt ra từ ngay sau ngày tiếp quản Thủ đô (từ năm 1954 đến nay) đã trải qua 70 năm dưới chính quyền cách mạng. Nhìn lại hình thức kiến trúc trong bối cảnh Hà Nội từ “một thời đạn bom, một thời hòa bình” đến thời kỳ Đổi mới và phát triển hiện nay, để thấy hơn tính xã hội của kiến trúc qua những chặng đường sáng tác của KTS. Theo đó, những hoạt động kiến trúc đã góp phần thể hiện sự năng động và sức sống nội tại của một đô thị có lịch sử nghìn năm với một quá khứ chồng xếp nhiều tầng văn hóa. 

Ý kiến của bạn

PHÁP LUẬT KIẾN TRÚC XÂY DỰNG – TẠP CHÍ KIẾN TRÚC VIỆT NAM
SunGroup
VINGROUP
Rạng Đông
Nam Group
Hưng Thịnh Land
Lumi