NTM Bắc Giang: Đẩy mạnh phát triển hạ tầng giao thông vùng dân tộc thiểu số

(Vietnamarchi) - Bên cạnh những chính sách lớn từ chương trình MTQG Xây dựng NTM; Chương trình MTQG phát triển kinh tế xã hội vùng DTTS; Chương trình MTQG Giảm nghèo bền vững. UBND tỉnh Bắc Giang cũng đã ban hành nhiều cơ chế hỗ trợ phát triển hạ tầng giao thông vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi của tỉnh.
10:07, 16/12/2023

Với 6 huyện miền núi và 1 huyện vùng cao, hạ tầng giao thông nông thôn trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói chung và vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đang đổi thay tích cực nhờ nỗ lực phát huy chính sách từ trung ương và địa phương.

Riêng giai đoạn 2022 - 2024, tỉnh Bắc Gang cũng đã bố trí 150 tỷ đồng từ nguồn vốn trung hạn để xây dựng 73 cầu, ngầm dân sinh tại các huyện: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Thế. Đến nay đã có 25 công trình được khởi công, xây dựng.

Bên cạnh nguồn lực hỗ trợ của tỉnh, các huyện miền núi tỉnh Bắc Giang cũng có cơ chế, chính sách hỗ trợ cải tạo, nâng cấp đường giao thông nông thôn, từ đó góp phần hoàn thiện cơ sở hạ tầng, từng bước xây dựng NTM đi vào chiều sâu và bền vững.

Hạ tầng giao thông ngày càng hoàn thiện, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số Bắc Giang.

Ông Ngụy Văn Tuyên, Bí thư huyện ủy Sơn Động cho biết: “Thực hiện chương trình MTQG xây dựng NTM, chương trình phát triền kịnh tế xã hội vùng DTTS, Huyện ủy, HĐND huyện đã ban hành nghị quyết hỗ trợ kinh phí nâng cấp, mở rộng tuyến đường xã, thôn, nội đồng giai đoạn 2022-2025 với tổng kinh phí dự kiến hơn 293 tỷ đồng, trong đó ngân sách huyện hơn 264 tỷ đồng, còn lại ngân sách cấp xã và người dân đóng góp.

“Nhờ thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chương trình, dự án, chính sách diện mạo nông thôn trên địa bàn huyện Sơn Động đã có những thay đổi căn bản theo hướng tích cực; kinh tế hàng năm tăng trưởng khá; cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch phù hợp với sự phát triển chung của tỉnh.” Ông Tuyên cho hay.

Còn với huyện vùng miền núi Yên Thế, năm 2022, địa phương bố trí gần 320 tỷ đồng cứng hóa đường thôn, xóm, trục xã. Tiêu biểu như tuyến đường bê tông ở các bản: Đồng Tân, La Lanh, Tràng Bắn và La Xa (xã Đồng Vương); đường bê tông, ngầm bản Đồng An, bản Gốc Bòng (xã Đồng Tiến)… và 3 dự án giao thông lớn gồm: Cầu Thác Lười, đường bê tông thôn Khuôn Kén và 4 ngầm, đường dẫn với tổng kinh phí hơn 43 tỷ đồng từ nguồn vốn đầu tư công. Hay như tại xã Tân Sơn cũng đang xây dựng 1 km đường giao thông từ thôn Bắc Hoa đi xã Quan Sơn (Chi Lăng, Lạng Sơn) từ nguồn vốn chương trình xây dựng nông thôn mới.

Diện mạo nông thôn trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã có những thay đổi căn bản theo hướng tích cực.

Thêm nguồn lực cho các xã nghèo

Xã Giáo Liêm (Sơn Động), dù có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế rừng song do xa trung tâm, đường vào trung tâm xã nhỏ, xuống cấp nên giá trị kinh tế không lớn (đạt 70-80 triệu đồng/ha/chu kỳ 5 năm, thấp hơn bình quân chung của huyện từ 20-30 triệu đồng.

Nhưng nay nhờ sự hỗ trợ nguồn lực từ các chương trình MTQG và tỉnh, nhiều tuyến đường giao thông nông thôn trên địa bàn xã đã được đầu tư nâng cấp, mở rộng, bê tông hóa, góp phần rút ngắn gần 2/3 quãng đường từ xã đi trung tâm huyện, tạo thuận lợi cho tiêu thụ gỗ rừng trồng cũng như nhiều loại cây khác của xã.

Ông Vi Văn Bắc, Bí thư Đảng ủy xã Giáo Liêm chia sẻ, ngoài tuyến đường huyện đang triển khai, từ năm 2022 đến nay, toàn xã đã bê tông hóa được hơn 6 km đường giao thông liên thôn với tổng kinh phí hơn 40 tỷ đồng. Huy động nguồn xã hội hóa mở rộng 3,3 km đường thôn, xóm tại các thôn: Đá Cối, Rèm và Việt Tiến.

Thi công tuyến đường nối thôn Việt Tiến (xã Giáo Liêm) với thôn Hiệp Reo (xã Vĩnh An) huyện Sơn Động, Bắc Giang.

“Để thi công những công trình trên, hơn 100 hộ dân trong xã đã hiến gần 8 ha đất, 38 m2 tường rào, một khu chăn nuôi lợn, gà rộng gần 100 m2 cùng nhiều cây xanh các loại. Giao thông được đầu tư, người dân có điều kiện hơn để phát triển kinh tế, tỷ lệ hộ nghèo của xã giảm bình quân 5%/năm” ông Bắc cho biết thêm.

Mặc dù đã được đầu tư nâng cấp, mở mới nhiều tuyến đường nhưng vì địa bàn rộng, nguồn lực trong dân còn hạn chế nên tỷ lệ cứng hóa đường giao thông của huyện vẫn thấp, nhiều thôn, bản vẫn bị “cô lập” mỗi khi mưa lớn

Vì vậy, để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội vùng DTTS và miền nui, giai đoạn 2021 – 2025, từ nguồn vốn chương trình MTQG, tỉnh Bắc Giang đã dành hơn 391 tỷ đồng để xây dựng đường dẫn cùng 9 dự án cứng hóa đường giao thông đến trung tâm các xã tại huyện vùng cao Sơn Động.

Bên cạnh việc đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở, giao thông nông thôn nhằm xóa các điểm đứt, gãy, thuận lợi về giao thông, tăng "kết nối" với vùng sâu, vùng xa, năm 2023,  tỉnh Bắc Giang cũng đã hỗ trợ 182 hộ làm nhà ở, 1.234 hộ thực hiện chuyển đổi nghề, 2.206 hộ nước sinh hoạt phân tán, đầu tư xây dựng 8 công trình nước sinh hoạt tập trung; hoàn thành 30 km đường giao thông đến trung tâm xã, đường liên xã; xây mới, cải tạo nâng cấp ba chợ, ba trạm y tế xã; đầu tư xây dựng 49 công trình thiết yếu tại các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn; tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho 12 trường; đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp 7 trường nội trú, bán trú.

Ưu tiên chuyển đổi công sở dôi dư thành trung tâm chăm sóc người cao tuổi - Chiến lược an sinh cho thời kỳ già hóa dân số

(KTVN 257) Trong bối cảnh cả nước đang từng bước thực hiện sắp xếp lại đơn vị hành chính, dẫn đến dôi dư nhiều trụ sở công quyền, việc sử dụng lại những công trình này không thể chỉ dừng ở tính toán hợp lý về mặt vật chất, mà cần được đặt trong một chiến lược tổng thể, lâu dài và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Trong các phương án chuyển đổi chức năng sử dụng, Nhà nước nên xác định rõ một hướng ưu tiên chiến lược, đó là tận dụng các công sở dôi dư để xây dựng các trung tâm chăm sóc sức khỏe và viện dưỡng lão cho người cao tuổi.

Bài toán nào cho việc chuyển đổi công năng các công sở dôi dư?

(KTVN 257) Sau khi xoá bỏ cấp huyện và sáp nhập tỉnh, ứng xử thế nào với các khu Trung tâm Hành chính của đô thị huyện lỵ và tỉnh lỵ cũ (sau đây gọi tắt là các khu Trung tâm đô thị cũ, viết tắt là khu TTĐT cũ) là một vấn đề rất lớn, được Đảng, Nhà nước, cấp uỷ, chính quyền các cấp và nhân dân đặc biệt quan tâm. Đã có nhiều gợi ý, đề xuất mang tính định hướng các phương án ứng xử đối với các công sở nhưng xem ra còn quá nhiều nội dung cần bàn thảo, phản biện xã hội để có thể lựa chọn được phương án tối ưu. Đặc biệt, dường như hầu hết các ý kiến chỉ nêu ứng xử với các công trình công sở với những gợi ý cho từng công trình mà chưa có gợi ý hay đề xuất nào định hướng tương lai cho tổng thể các khu đô thị cũ (KĐT cũ), trong đó các khu trung tâm đã hết vai trò là trung tâm hành chính. Với góc nhìn của người từng nhiều năm làm công tác quy hoạch đô thị, tôi xin góp một vài ý kiến, trên cơ sở lấy thực tế tại tỉnh Bắc Ninh.

Tránh lãng phí trụ sở sau sắp xếp - cần ứng dụng công nghệ trong quản lý tài sản

(KTVN 257) Trong thế kỷ XXI, thế giới đã phát triển nhanh, làm ra nhiều của cải, nhưng thế giới còn phát triển nhanh hơn trong công nghệ quản lý tài sản (cả công lẫn tư) gọi chung là công nghệ Quản lý cơ sở vật chất (FM - Facilities Management). Toàn bộ tài sản được mô tả trên hệ thống thông tin địa lý số hóa (GIS - Geographic Information System) bao gồm thông tin định vị trên bản đồ vệ tinh, các thông số kỹ thuật, định giá trị vật lý và phi vật lý của tài sản… Chúng ta cần tận dụng các công kỹ nghệ mới để thống kê, rà soát, kiểm đếm tài sản. Từ hồ sơ hiện trạng chi tiết đó, chúng ta sẽ nhận diện được những điểm mạnh, yếu của tài sản mà khai thác tối ưu vào các chức năng mới.

Trụ sở cũ - Bài toán mới

(KTVN 257) Việc sáp nhập hàng nghìn đơn vị hành chính cấp xã, huyện và cấp tỉnh không chỉ giúp tinh gọn bộ máy mà còn đặt ra một bài toán lớn: xử lý hàng loạt trụ sở hành chính cũ không còn sử dụng đúng chức năng. Đây không chỉ là câu chuyện về quản lý tài sản, mà còn phản ánh năng lực thể chế, tầm nhìn quy hoạch và trách nhiệm sử dụng hiệu quả nguồn lực công. Nếu được nhìn nhận đúng và xử lý bài bản, những trụ sở dôi dư hoàn toàn có thể trở thành nguồn lực phát triển mới cho cộng đồng, thay vì bị bỏ ngỏ trong sự chờ đợi và lúng túng.

Tiêu chí đánh giá và phương pháp áp dụng công trình hành chính dôi dư sau sáp nhập: Hướng tới phát triển bền vững và hiệu quả xã hội

(KTVN 257) Mỗi công trình hành chính dôi dư không phải là một khối tài sản vô tri, mà là một phần trong đời sống đô thị. Nếu không có con người sử dụng, không có mục tiêu phục vụ rõ ràng, thì giá trị của công trình sẽ hao mòn theo thời gian. Mỗi quyết định chuyển đổi, dù là giữ nguyên chức năng, thay đổi chức năng hay giao cho tổ chức khác quản lý, đều phải xuất phát từ đánh giá cụ thể về bối cảnh không gian, nhu cầu sử dụng thực tế và năng lực vận hành lâu dài. Mọi mô hình nên được xây dựng trên cơ sở thử nghiệm, đo lường, phản hồi, điều chỉnh - chứ không thể quyết định theo cảm hứng, thói quen hay áp lực hình thức.

Ý kiến của bạn

SunGroup
VINGROUP
Rạng Đông
Nam Group
Hưng Thịnh Land
Vinmikh