Điều chỉnh Quy hoạch chung thủ đô Hà Nội, cần lưu ý gì?

Hà Nội đang tổ chức triển khai lấy kiến các cơ quan, tổ chức và cộng đồng về Quy hoạch Thủ đô và Điều chỉnh Quy hoạch chung thủ đô đến 2045, tầm nhìn đến 2065 và dự kiến trình thành phố trong tháng 12.
15:21, 18/12/2023
Ảnh minh họa: Tuổi trẻ thủ đô

PV: Xin ông cho biết quan điểm của mình về Đề án điều chỉnh Quy hoạch chung của thành phố Hà Nội đang thực hiện lấy ý kiến?

KTS Trần Huy Ánh: Theo tôi, Nghiên cứu Thuyết minh Quy hoạch Thủ đô và Điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô cho thấy có 5 tồn tại lớn nhất không thể bỏ qua.

Thứ nhất là làm thế nào để Hà Nội đủ nước sạch. Bởi vì, thủ đô càng ngày càng mở rộng, nhưng dự báo về số lượng dân cư khá tùy tiện, thiếu cơ sở. Điển hình như sự cố nước sạch tại khu đô thị Thanh Hà vừa qua, vẽ ra thì dễ nhưng khi người dân đến ở thì đối mặt với tình trạng thiếu nước sạch.

Hà Nội phát triển nhưng không phải là không có giới hạn và việc tính toán về nhu cầu nước rất quan trọng. Quy hoạch trước đây đã tính toán sai, chỉ sau 10 năm thực hiện thấy thiếu nước sạch. Dự báo nước sạch thiếu hụt: năm 2011 dự báo nước sạch sinh hoạt Hà Nội đến năm 2030 là hơn 2 triệu m3/ngày đêm, đến năm 2023 dự báo tăng lên 3 triệu m3/ngày đêm (tăng 150%); Tăng khai thác nước mặt từ 1,7 triệu lên 2,5 triệu m3/ngày đêm trong khi nguồn nước mặt sông Hồng, sông Đuống, sông Đà đều suy giảm về khối lượng và chất lượng.

Thứ hai là phát triển bất động sản bừa bãi làm cho việc tiếp cận nhà ở bình dân khó khăn, thiếu nhiều. Tổng diện tích sàn nhà ở hiện có và đang triển khai 265 triệu m2 - thừa cho 10 triệu cư dân đô thị vào năm 2050, nhưng nhiều cư dân đô thị hiện nay vẫn không có nhà ở.

Hai bản quy hoạch vẫn tiếp tục mở rộng đất đô thị (từ 94.700ha lên 150.994ha, tiến tới đảo ngược 30% đất đô thị/70% đất Hành lang Xanh thành 70% đất đô thị, thu hẹp đất tự nhiên, hành lang Xanh xuống còn 30% - sẽ phát sinh nhiều hệ lụy bất lợi về kinh tế, bất ổn về xã hội.

Thứ ba, thiếu một chiến lược phát triển giao thông trọng tâm trọng điểm, không thực tiễn, không khả thi và không có gì đột phá, vừa ngắn hạn dài hạn. Sau 10 năm thực hiện theo quy hoạch 1259, không có một chỉ tiêu giao thông nào đạt, đạt rất thấp.

Ví dụ như đường sắt đô thị đạt 15%, đất dành cho giao thông mới đạt 45 % kế hoạch. Do vậy, để điều chỉnh thì phải điều chỉnh lại các chỉ số thực tiễn nhưng điều chỉnh mà vẫ sao chép nguyên xi những mục tiêu không thực hiện được vào trong quy hoạch. Như vậy tính khả thi không cao và không hấp dẫn các nguồn lực xã hội, trong khi mục tiêu của thành phố là đa dạng hóa nguồn lực đầu tư.

Bên cạnh đó, bản điều chỉnh quy hoạch đưa thêm khái niệm TOD (mô hình phát triển đô thị gắn với giao thông công cộng). Dù đã thành công tại nhiều quốc gia khi Thành phố giao đất cho tư nhân phát triển hạ tầng đô thị kết nối, bán nhà đắt để bù vào tiền làm đường.

Tuy nhiên, mô hình này lại không hiệu quả ở Hà Nội. Từ năm 2014, một nghiên cứu của Nhật Bản đã chỉ ra, phát triển TOD của nhiều tuyến giao thông đường sắt đô thị không còn nhiều cơ hội. Bởi vì, đất ở 2 bên đường đã giao hết cho các doanh nghiệp, làm sao mà lấy đất của họ để phát triển TOD được nữa.

Thứ tư, hai bản quy hoạch trình bày các thành phần rời rạc, thiếu tích hợp đa ngành. Hiện nay, chúng ta thấy phát triển giao thông và phát triển đô thị không đi liền với nhau, phát triển nông nghiệp không đi cùng với cải thiện môi trường, tái sinh tuần hoàn nước, tái sinh tuần hoàn chất thải đô thị; việc phát triển đô thị bừa bãi đôi khi lại còn triệt tiêu cả các cuộc sống bình an của người dân.

Bất cập cuối cùng chính là cách làm quy hoạch lạc hậu, khi công nghệ đã phát triển rất nhiều về Công nghệ thông tin địa lý (GIS), IoT,... nhưng bản quy hoạch làm theo lối cũ. Hai bản quy hoạch sử dụng bản đồ vệ tinh miễn phí, độ phân giải thấp làm nền để vẽ quy hoạch mà không sử dụng ứng dụng phân tích khoa học chuyên sâu.

Cách thực hiện hai quy hoạch đều lạc hậu, đưa ra những kết quả chất lượng rất kém, nguy hiểm hơn là đưa ra một kịch bản phát triển mà không có tương lai, như vậy không chỉ gây tốn kém tiền bạc mà còn đưa ra kịch bản phát triển kinh tế xã hội thiếu bền vững, tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro

PV: Vậy thành phố cần làm gì để khắc phục những bất cập này, thưa ông?

KTS Trần Huy Ánh: Không gian thủ đô phải có không gian có thể sống được, an toàn. Phát triển đô thị phải lấy hạnh phúc của người dân để làm trọng tâm chứ cho nên cần phải giám sát chặt chẽ quy hoạch.

Chính phủ nói rõ những điều chỉnh quy hoạch chung thủ đô cũng như quy hoạch thủ đô là phải có tính đột phá hiện đại và có một sự đổi mới toàn diện. Bất cập do chúng ta dùng những phương pháp cũ thì nếu chúng ta chuyển đổi thành những phương pháp mới thì nó sẽ có những kết quả khác.

Hiện tại các đơn vị tư vấn đang hiểu nhầm, GIS là chỉ vẽ lên trên bản đồ số. Nhưng thực ra GIS là một hệ thống thông tin mà từ đó có thể tham chiếu về thực trạng và những thách thức của thành phố.

Ví dụ: GIS có thể phân tích được khu vực nào thiếu nước, khu vực nào có nguy cơ ô nhiễm nguồn nước. GIS cũng có thể đưa cho chúng ta có được những con số rất cụ thể về sự cần thiết của phát triển đô thị hóa hay là những giới hạn mức của đô thị hóa để có đủ nước cho số người sử dụng đó. Những thông tin như thế thì hệ thống thông tin địa lý có thể giúp được ra được giải pháp để mà có đủ nước cho một lượng người tối đa cho Hà Nội là bao nhiêu .

Việc ứng dụng khoa học công nghệ nó giúp cho những nhà quản lý cũng như là những người nghiên cứu quy hoạch nhận diện được những khu vực đô thị có mật độ giao thông có cường độ, tần suất cao và chúng ta sẽ giải quyết được giao thông ở chỗ đó.

Chúng ta biết rằng là từ những điều kiện tự nhiên cho thiếu nước nếu như ứng dụng khoa học, công nghệ thực sự thì có thể giải quyết được, đến việc thu hút được cả nguồn vốn đầu tư, tức là không chỉ là những yếu tố tự nhiên, yếu tố xã hội mà cả yếu tố kinh tế.

Như vậy, nếu mà ứng dụng khoa học kỹ thuật thực sự vào trong nghiên cứu quy hoạch thủ đô cũng như điều chỉnh quy hoạch chung thủ đô thì chúng ta có thể có bài toán tích hợp đa ngành.

Đấy chính là mong mỏi của Chính phủ, của Luật quy hoạch mới cũng như là Luật quy hoạch đô thị và quy hoạch mới có tính khả thi, chứ không chỉ là những quy hoạch “treo”.

PV: Vâng. Xin cảm ơn ông!

https://vovgiaothong.vn/newsaudio/dieu-chinh-quy-hoach-chung-thu-do-ha-noi-can-luu-y-gi-d36727.html

Pháp lý xây dựng

Tài nguyên kinh tế du lịch di sản từ thương hiệu đô thị di sản thiên niên kỷ và những gợi ý nghiên cứu tiềm năng

Giá trị tiềm năng chỉ riêng cho kinh tế du lịch di sản của tỉnh Ninh Bình tính theo công thức của Noonan-2003 tổng hợp từ 129 địa điểm nghiên cứu để tính thử: Hàng năm có từ 5-7 triệu lượt khách du lịch/năm x 42.78 USD (sẵn lòng chi trả du lịch/người) = 192 triệu đến 300 triệu USD/năm; Nếu tính biến (t) theo thời gian, chẳng hạn sau 10 năm, thì Giá trị tiềm năng du lịch di sản của Ninh Bình có thể lên tới hơn 3 tỷ USD/năm - Khoảng 75 ngàn tỷ/năm (Hà Nội hiện nay là 62.000 tỷ/năm). Nếu lựa chọn định hướng phát triển Đô thị di sản thiên niên kỷ - biểu tượng duy nhất ở VN thì tiềm năng chi trả du lịch của du khách có thể lên đến 12 tỷ USD/năm.

Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Ninh Bình, tại sao không?

Trên thế giới có khá nhiều địa danh vừa là Di sản Thế giới (DSTG) lại vừa là Công viên Địa chất Toàn cầu (CVĐCTC) UNESCO, thậm chí có khi lại còn cả Khu dự trữ Sinh quyền Thế giới (DTSQ), tất nhiên chỉ khác biệt ít nhiều về ranh giới. Có thể kể đến một số ví dụ tiêu biểu, như Ngorongoro (Tanzania) hay đảo Jeju (Hàn Quốc), vừa là DSTG, DTSQ, đồng thời cũng là CVĐCTC UNESCO. Đảo Jeju (Hàn Quốc) - thường được mệnh danh là Nữ hoàng ba vương miện - có lẽ là ví dụ điển hình nhất, với DSTG ở vùng trung tâm, mở rộng dần gần như theo kiểu đồng tâm, lần lượt được bao quanh bởi Vườn quốc gia, DTSQ và ngoài cùng, chiếm toàn bộ đảo là CVĐCTC UNESCO. Hiện nay, tỉnh Ninh Bình đang có định hướng lớn về “Thành phố Di sản Thiên niên kỷ Hoa Lư”, kích hoạt trực tiếp ý tưởng về CVĐCTC UNESCO.

Kết nối không gian văn hóa - xã hội vùng lõi và vùng đệm danh thắng Tràng An - Hướng tới đô thị di sản vì con người

Ngày 04/3/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 218/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch tỉnh Ninh Bình thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 với mục tiêu xây dựng Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc trung ương, văn minh, hiện đại, thông mình, có bản sắc riêng, ngang tầm các đô thị di sản, thành phố sáng tạo trên thế giới, có vị thế, giá trị thương hiệu cao trong mạng lưới di sản thế giới của UNESCO. Mục tiêu này cần được tiếp cận từ góc nhìn của 3 vấn đề cơ bản là: Bối cảnh của không gian lịch sử - văn hóa kinh đô Hoa Lư xưa với phạm vi tương đương với tỉnh Ninh Bình hiện nay; Bối cảnh biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn thế giới; Xu hướng phát triển đô thị di sản đô thị sinh thái gần với phát triển du lịch bền vững.

Xây dựng cơ chế chính sách đặc thù, vượt trội cho phát triển vùng di sản Tràng An, Ninh Bình theo hướng bền vững

Cần nhận diện, định dạng cụ thể các giá trị bản sắc mang tính đặc thù, nổi trội, riêng có và lợi thế tuyệt đối của vùng Tràng An, Ninh Bình coi đó là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội của tỉnh; trên cơ sở đó đề xuất một số nhóm chính sách mang tính vượt trội, nhằm hoán chuyển các nguồn lực di sản trở thành nguồn lực để phát triển tỉnh Ninh Bình trong bối cảnh mới. 

Xây dựng đô thị di sản Hoa Lư - Nhìn từ mục tiêu thiên niên kỷ của UNESCO

Di sản - trở thành một thương hiệu, định vị định danh và tôn vinh cao cấp nhất đối với đô thị hay một nơi chốn. Với các thành phố ở Việt Nam, nơi mà quỹ di sản, di tích dày đặc, trải dài, trải rộng trong không gian và đậm đặc tính lịch sử của thời gian thì có được tôn vinh là đô thị di sản. Vậy, để định danh được nó, cần có các tiêu chí đánh giá cụ thể. Và trên thực tế các thành phố còn “lúng túng” khi xác định các tiêu chí này dễ tạo nên những mâu thuẫn trong cách ứng xử với chính di sản của mình.

Ý kiến của bạn

PHÁP LUẬT KIẾN TRÚC XÂY DỰNG – TẠP CHÍ KIẾN TRÚC VIỆT NAM
SunGroup
VINGROUP
Rạng Đông
Nam Group
Hưng Thịnh Land
Lumi