Xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trở thành đô thị đạt tầm cỡ quốc tế

Xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trở thành đô thị đạt tầm cỡ quốc tế

(Vietnamarchi) - Theo định hướng phát triển đô thị Hải Phòng đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2050, Hải Phòng đặt mục tiêu trở thành đô thị đạt tầm cỡ quốc tế và là thành phố có trình độ phát triển cao trong nhóm các thành phố hàng đầu châu Á và thế giới.
10:16, 15/05/2024

UBND thành phố Hải Phòng vừa có Quyết định số 1274/QĐ-UBND ngày 19/4/2024 phê duyệt Chương trình phát triển đô thị thành phố Hải Phòng định hướng đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2050.

Chương trình phát triển đô thị thành phố Hải Phòng trên toàn bộ phạm vi ranh giới đơn vị hành chính của thành phố Hải Phòng, bao gồm bao gồm cả nội thành, ngoại thành của thành phố, trên 15 đơn vị hành chính trực thuộc với 07 quận nội thành (Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền, Kiến An, Đồ Sơn, Dương Kinh), 08 huyện ngoại thành (An Dương, An Lão, Bạch Long Vĩ, Cát Hải, Kiến Thụy, Tiên Lãng, Thủy Nguyên, Vĩnh Bảo) và được có giới hạn trong phạm vi. Cụ thể, phía Bắc, Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh; phía Nam, Tây Nam giáp tỉnh Thái Bình; phía Đông, Đông Nam giáp Vịnh Bắc Bộ; phía Tây giáp tỉnh Hải Dương.

Trong đó, chỉ tiêu phát triển đô thị giai đoạn đến năm 2025, tỉ lệ đô thị hoá thành phố đạt khoảng 60-70%; mật độ dân số toàn đô thị: 2.000 người - 3.000 người/km²; tỉ lệ đất xây dựng đô thị trên tổng diện tích đất tự nhiên toàn thành phố đạt 31% - 32%.

Đặc biệt, thành phố sẽ mở rộng đô thị trung tâm sang khu vực huyện An Dương, nâng lên thành 8 quận nội thành và điều chỉnh địa giới hành chính quận Hồng Bàng (thành lập quận An Dương và điều chỉnh 3 xã An Hưng, Đại Bản, An Hồng sang quận Hồng Bàng).

Đồng thời, thành lập thành phố Thủy Nguyên trên cơ sở hiện trạng địa giới hành chính huyện Thủy Nguyên và toàn bộ đảo Vũ Yên. Hoàn thiện các tiêu chuẩn đô thị loại I thành phố Hải Phòng theo quy định.

Đến năm 2030, tỉ lệ đô thị hóa đạt khoảng 74% -76%; mật độ dân số toàn đô thị đạt: 3.000 người - 3.500 người/km², mở rộng đô thị trung tâm sang khu vực huyện Kiến Thụy. Khu vực nội thành bao gồm 9 quận: Lê Chân, Hồng Bàng, Ngô Quyền, Kiến An, Hải An, Dương Kinh, Đồ Sơn, An Dương và Kiến Thụy. Cùng với đó, Hải Phòng phát triển các đô thị An Lão, Tiên Lãng và Vĩnh Bảo đạt tiêu chí đô thị loại IV.

Gia đoạn đến năm 2035 sẽ tiếp tục phát triển thành phố Hải Phòng theo hướng cơ bản đạt các tiêu chí của đô thị loại đặc biệt về cơ sở hạ tầng đô thị, hạ tầng về y tế, giáo dục, đào tạo và công trình văn hóa cấp đô thị. Phát triển đô thị thành phố Thủy Nguyên đạt tiêu chí đô thị loại II.

Đến năm 2040, Hải Phòng phấn đấu đạt tỷ lệ đô thị hóa khoảng 80 - 86%. Mở rộng khu vực đô thị trung tâm sang khu vực huyện Cát Hải, thành lập quận Cát Hải (đô thị ở hải đảo). Khu vực nội thành gồm 10 quận: Lê Chân, Hồng Bàng, Ngô Quyền, Kiến An, Hải An, Dương Kinh, Đồ Sơn, An Dương, Kiến Thụy và Cát Hải.

Tầm nhìn giai đoạn 2045 - 2050, xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trở thành đô thị đạt tầm cỡ quốc tế, giữ vai trò là đầu mối kết nối - phát triển với mạng lưới khu vực và quốc tế, góp phần nâng cao tỉ lệ đô thị hóa Việt Nam thuộc nhóm trung bình cao của khu vực ASEAN và châu Á.

Cơ cấu kinh tế khu vực đô thị phát triển theo hướng hiện đại với các ngành kinh tế xanh, kinh tế số chiếm tỉ trọng lớn. Đưa Hải Phòng trở thành thành phố có trình độ phát triển cao trong nhóm các thành phố hàng đầu châu Á và thế giới.

UBND thành phố Hải Phòng giao các sở, ngành, đơn vị và địa phương xây dựng kế hoạch thực hiện cho từng giai đoạn trên cơ sở bám sát các quy hoạch được duyệt. Bên cạnh đó, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các dự án, chương trình, kế hoạch về phát triển đô thị và tổng hợp báo cáo UBND thành phố, Bộ Xây dựng theo quy định.

Kiến trúc của sự kiềm chế: Khi lựa chọn không xây dựng trở thành thiết kế

Trong một thế giới đang đối mặt với sự cạn kiệt sinh thái và bão hòa không gian, hoạt động xây dựng đã trở thành biểu tượng của cả sáng tạo lẫn tiêu dùng. Trong nhiều thập kỷ, tiến bộ kiến ​​trúc được đo lường bằng những điều mới mẻ: vật liệu mới, công nghệ mới, những tượng đài mới của tham vọng. Tuy nhiên, ngày nay, ngành kiến ​​trúc ngày càng được định hình bởi một dạng trí tuệ khác, một dạng trí tuệ coi trọng những gì đã có. Các kiến ​​trúc sư đang học được rằng làm ít hơn có thể đồng nghĩa với thiết kế nhiều hơn, và sự thay đổi này đánh dấu sự xuất hiện của cái mà người ta có thể gọi là kiến ​​trúc tiết chế: một thực hành được định nghĩa bằng sự cẩn thận, bảo trì và lựa chọn có chủ đích không xây dựng.

Bài toán kẹt xe ở TPHCM: bắt đầu từ đâu ?

Nhìn ở góc độ đô thị học, giao thông là “hệ tuần hoàn máu” của thành phố. Khi mạch máu tắc, mọi cơ quan khác suy yếu: sản xuất đình trệ, dịch vụ chậm chạp, y tế khẩn cấp bị chậm trễ, chất lượng sống suy giảm. Việc điều trị căn bệnh này không thể tiếp tục theo kiểu chắp vá – mở thêm vài làn đường, nới thêm cây cầu – mà phải xem tổng thể cấu trúc đô thị, hành vi di chuyển và mô hình quản trị giao thông.

Từ kinh nghiệm phát triển đô thị ven sông đến “trục cảnh quan sông Hồng”

Bên ngoài con đê sông Hồng, nơi ít người ngoái nhìn tới, là những xóm nhỏ nơi sinh sống từ những bước chân tha hương của biết bao phận người. Họ đến từ mọi miền, mang theo đôi bàn tay chai sần và ước vọng đổi đời, sống những ngày lam lũ quanh năm chỉ để con cái được học hành tử tế hơn họ. Có người tích cóp cả đời mới dựng được căn nhà tầng đơn sơ; có cả chục con người vẫn ở trong những phòng trọ chưa đầy mười mét vuông. Họ là những người mang cả quê hương lên Hà Nội, làm đủ thứ nghề: thợ hồ, bán hàng rong, chạy xe, làm đủ thứ nghề để chắt chiu từng đồng nuôi con ăn học. Có gia đình dành dụm mấy chục năm mới dựng được căn nhà vững chãi; nhưng cũng có hàng nghìn con người thuê trọ trong những gian phòng ẩm thấp, chỉ đủ kê chiếc giường và cái gác bếp nhỏ - để rồi sáng hôm sau lại hòa vào dòng người mưu sinh. Những xóm thợ, ngõ nhỏ ấy tồn tại trong sức sống đô thị, những con người góp phần không nhỏ cho thành phố. Không ai muốn nhếch nhác, nhưng cũng không đủ điều kiện để thay đổi. Giờ đây, khi thành phố bàn chuyện chỉnh trang, cải tạo hay di dời …thì vấn đề không chỉ nằm ở bản vẽ hay phương án đầu tư, mà nằm ở chỗ: làm thế nào để những con người đã dồn cả đời vào mảnh đất bãi ấy không bị bỏ lại phía sau trong một cuộc thay đổi quá lớn và quá nhanh.

Đô thị hoá không chỉ là mở rộng diện tích, mà là mở rộng tầm nhìn

Ba thập kỷ qua, tốc độ đô thị hóa của Việt Nam được xem là một trong những hiện tượng đáng chú ý của châu Á. Nhiều khu đô thị, dân cư, khu công nghiệp, các công trình cao tầng mọc lên theo nhu cầu phát triển kinh tế cùng sự gia tăng dân số đến với các đô thị lớn. Bên cạnh đó là một hệ quả ngày càng rõ rệt: tần suất và mức độ ngập lụt, triều cường, sạt lở gia tăng sau những đợt bão lũ vừa qua ở một số đô thị lớn như Hà Nội, TPHCM, đặc biệt là ở miền Trung và Đà Nẵng. Điều này cho thấy sự tác động không chỉ đơn thuần là do “thiên tai” mà còn biểu hiện của tính chủ động trong việc hoạch định chiến lược, kế hoạch, quy hoạch chưa sát với thực tế của quy luật tự nhiên, đất, nước, dòng chảy, biến đổi khí hậu. Bài viết này đặt ra câu hỏi: nếu ta nhìn lại các cấp độ Quy hoạch từ các chuyên ngành bằng lăng kính khoa học: vật lý - địa chất - thủy văn - sinh thái, liệu có thể rút ra nguyên lý để giúp chúng ta sống hài hòa hơn với thiên nhiên và giảm thiểu rủi ro ?

Thiết kế an toàn: Cách các kiến ​​trúc sư và giám định pháp y suy nghĩ lại về an ninh trên mọi quy mô

Nhiều thập kỷ sau sự kiện 11/9 và bạo lực hàng loạt đã gây áp lực buộc các thành phố, tại Hoa Kỳ và trên toàn cầu, phải xem xét lại ý nghĩa của "an toàn". Đó là về rào chắn, cọc tiêu, giám sát? Hay là về niềm tin, khả năng hiển thị, bằng chứng, khả năng phục hồi? Một số dự án đang đối mặt với những câu hỏi này ở nhiều quy mô khác nhau để chứng minh cách kiến ​​trúc và tư duy pháp lý có thể cùng nhau bảo vệ cộng đồng và đời sống dân sự.

Ý kiến của bạn

SunGroup
VINGROUP
Rạng Đông
Nam Group
Mây trà shan
Vinmikh