Biến tro xỉ, bùn thải thành vật liệu thay thế cát đắp nền đường

Biến tro xỉ, bùn thải thành vật liệu thay thế cát đắp nền đường

(Vietnamarchi) - Tro, xỉ là những chất thải ra từ hoạt động sản xuất của các nhà máy nhiệt điện, gây sự khó khăn cho việc thu gom, xử lý. Tuy nhiên, một số chuyên gia cho biết việc tận dụng tro xỉ nhiệt điện, xỉ lò cao, bùn sông hồ để làm vật liệu đắp nền đường là có khả thi, biến các phế thải này thành vật liệu có ích.
10:37, 22/03/2024

Phát triển và sử dụng nguồn vật liệu thay thế cát tự nhiên

Cát tự nhiên (cát sông) đang được dùng với hai mục đích chính. Một loại chất lượng cao dùng chế tạo vữa và bêtông, còn gọi là cát cốt liệu xây dựng. Một loại cát tự nhiên chất lượng thấp hơn được dùng đắp nền đường, nền công trình dân dụng. Theo Viện Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng), trung bình mỗi năm nhu cầu cát cốt liệu xây dựng trên cả nước khoảng 130 triệu m3, cát san lấp 550 triệu m3.

Tuy nhiên, hiện nay, nguồn cát tự nhiên ở nhiều địa phương còn thiếu hụt. Trong đó, trữ lượng cát tự nhiên (cát sông) dùng để san lấp của đồng bằng sông Cửu Long khoảng 37 triệu m3. Trong khi đó, riêng về hạ tầng giao thông, 6 tuyến cao tốc triển khai giai đoạn 2022 - 2025 ở khu vực này cần gần 50 triệu m3 cát. Ngoài ra, các dự án giao thông cấp tỉnh cần khoảng 36 triệu m3 cát trong các năm 2023-2024. 

Tại nhiều dự án giao thông ở miền Bắc và miền Trung, nguồn cát tự nhiên đang bị đẩy giá cao do khan hiếm hơn so với 3 năm trước. Trong tương lai, cát tự nhiên sẽ ít dần do cát từ thượng nguồn đổ về ít, không đủ bù đắp lượng cát được khai thác. Nếu đào cát ồ ạt sẽ làm cho đáy sông ngày càng sâu thêm, nguy cơ sạt lở lớn.

Vật liệu thay thế cho cát tự nhiên có công suất lớn nhất hiện nay là cát nhân tạo (cát nghiền) từ các mỏ đá. Lợi thế của cát nghiền là giá thành 200.000 - 250.000 đồng/m3, trong khi giá cát sông 400.000 - 500.000 đồng/m3 nên có thể giảm chi phí xây dựng. Trong khi, cát nghiền không khả thi nếu sử dụng san lấp do đơn giá của Nhà nước cho cát san lấp khoảng 80.000 đồng/m3. Giá cao nên cát nghiền chủ yếu dùng cho bêtông và vữa, không phù hợp để làm cát san lấp và đắp nền cho dự án giao thông.

Cát biển là nguồn vật liệu thay thể triển vọng bởi Việt Nam có 30 vùng biển có thể khai thác với tổng tài nguyên dự báo gần 150 tỷ m3. Tuy nhiên, hiện mới có tiêu chuẩn TCVN 13754:2023 cát nhiễm mặn cho bêtông và vữa, chưa có tiêu chuẩn cát biển làm vật liệu thay thế cát san lấp. Việc thí điểm cát biển đắp nền đường mới ở quy mô nhỏ trong đó, cấp thiết kế thấp hơn đường cao tốc, chất lượng cát biển mới chỉ được nghiên cứu cho một khu vực (mỏ cát biển tỉnh Trà Vinh), các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn về độ mặn đối với cây trồng vật nuôi chưa đầy đủ.

Vì vậy, việc sử dụng đại trà vật liệu cát biển cần được tiếp tục thí điểm mở rộng ở các dự án với cấp quy mô, cấp thiết kế cao hơn, cũng như thí điểm ở các điều kiện tự nhiên, điều kiện môi trường, nguồn vật liệu cát biển khác nhau để có cơ sở đánh giá một cách toàn diện.

Tro xỉ, bùn nạo vét có thể thay thế cát đắp nền đường

Theo ông Lê Việt Hùng, Phó Giám đốc Trung tâm Xi măng và bêtông (Viện Vật liệu xây dựng), cho rằng có thể thay thế cát san lấp bằng tro xỉ nhiệt điện, xỉ ngành luyện kim như xỉ lò cao, xỉ thép.

Nguồn tro xỉ nhiệt điện có thể sử dụng đắp nền hoặc là nguyên liệu sản xuất xi măng có tiềm năng, bởi tro xỉ nhiệt điện tại Việt Nam là rất lớn (tới từ 30 nhà máy nhiệt điện), mỗi năm có khoảng 16 triệu tấn.

Theo thống kê của Bộ Xây dựng, lượng phát thải tro, xỉ từ 29 nhà máy nhiệt điện trên cả nước trong năm 2022 là khoảng 16 triệu tấn và sẽ tăng lên 20 triệu tấn vào năm 2025. Hiện cả nước còn khoảng 48 triệu tấn tro xỉ tồn đọng tại các bãi, cần được tái chế để giảm ô nhiễm môi trường và thay thế cát tự nhiên ở các dự án giao thông.

Nguồn xỉ lò cao tại nhà máy thép ước tính mỗi năm 4,6 triệu tấn, xỉ thép 3,9 triệu tấn cũng là vật liệu thay thế. Không chỉ sử dụng đắp nền, san lấp, đây còn là cốt liệu cho bêtông. Lợi thế của vật liệu này là giá rẻ, tương đương giá cát san lấp, tuy nhiên nhà máy thép tập trung ở miền Bắc, miền Trung; miền Nam nơi dự án cao tốc Bắc Nam đang thiếu cát, chỉ có một số nhà máy thép tại Bà Rịa – Vũng Tàu.

Bên cạnh đó, thạch cao phốt pho từ các nhà máy sản xuất phân bón DAP có thể làm phụ gia cho xi măng hoặc làm vật liệu san lấp. Công suất mỗi nhà máy có thể khai thác gần 2 triệu tấn mỗi năm. Đuôi quặng ngành chế biến mỏ, đất đá thải than từ các mỏ than ở Quảng Ninh có thể làm vật liệu san nền tiềm năng. Hàng năm các mỏ than đổ ra bãi thải khoảng 150 triệu m3 đất đá, chiếm dụng hàng nghìn hecta đất.

Bùn thải nạo vét tại sông cũng có thể là nguồn vật liệu đắp nền, vừa góp phần bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, bùn thải có độ ẩm cao, chứa đất sét và các tạp chất hữu cơ nên phải qua xử lý như giảm ẩm, phối trộn với các vật liệu khác như cát, đá nếu sử dụng làm vật liệu đắp nền.

Thực tế ở nhiều nước châu Âu như Anh, Hà Lan, thì bùn, chất nạo vét được ưu tiên tái sử dụng cho các mục đích xây dựng, một số nơi dùng bùn nạo vét để bồi đắp các khu vực ven biển, vùng đất bị tác động của thủy triều, vùng đầm lầy ngập mặn…

Ảnh minh họa

Phát triển và sử dụng nguồn vật liệu thay thế cát tự nhiên

Cát tự nhiên (cát sông) đang được dùng với hai mục đích chính. Một loại chất lượng cao dùng chế tạo vữa và bêtông, còn gọi là cát cốt liệu xây dựng. Một loại cát tự nhiên chất lượng thấp hơn được dùng đắp nền đường, nền công trình dân dụng. Theo Viện Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng), trung bình mỗi năm nhu cầu cát cốt liệu xây dựng trên cả nước khoảng 130 triệu m3, cát san lấp 550 triệu m3.

Tuy nhiên, hiện nay, nguồn cát tự nhiên ở nhiều địa phương còn thiếu hụt. Trong đó, trữ lượng cát tự nhiên (cát sông) dùng để san lấp của đồng bằng sông Cửu Long khoảng 37 triệu m3. Trong khi đó, riêng về hạ tầng giao thông, 6 tuyến cao tốc triển khai giai đoạn 2022 - 2025 ở khu vực này cần gần 50 triệu m3 cát. Ngoài ra, các dự án giao thông cấp tỉnh cần khoảng 36 triệu m3 cát trong các năm 2023-2024. 

Tại nhiều dự án giao thông ở miền Bắc và miền Trung, nguồn cát tự nhiên đang bị đẩy giá cao do khan hiếm hơn so với 3 năm trước. Trong tương lai, cát tự nhiên sẽ ít dần do cát từ thượng nguồn đổ về ít, không đủ bù đắp lượng cát được khai thác. Nếu đào cát ồ ạt sẽ làm cho đáy sông ngày càng sâu thêm, nguy cơ sạt lở lớn.

Vật liệu thay thế cho cát tự nhiên có công suất lớn nhất hiện nay là cát nhân tạo (cát nghiền) từ các mỏ đá. Lợi thế của cát nghiền là giá thành 200.000 - 250.000 đồng/m3, trong khi giá cát sông 400.000 - 500.000 đồng/m3 nên có thể giảm chi phí xây dựng. Trong khi, cát nghiền không khả thi nếu sử dụng san lấp do đơn giá của Nhà nước cho cát san lấp khoảng 80.000 đồng/m3. Giá cao nên cát nghiền chủ yếu dùng cho bêtông và vữa, không phù hợp để làm cát san lấp và đắp nền cho dự án giao thông.

Cát biển là nguồn vật liệu thay thể triển vọng bởi Việt Nam có 30 vùng biển có thể khai thác với tổng tài nguyên dự báo gần 150 tỷ m3. Tuy nhiên, hiện mới có tiêu chuẩn TCVN 13754:2023 cát nhiễm mặn cho bêtông và vữa, chưa có tiêu chuẩn cát biển làm vật liệu thay thế cát san lấp. Việc thí điểm cát biển đắp nền đường mới ở quy mô nhỏ trong đó, cấp thiết kế thấp hơn đường cao tốc, chất lượng cát biển mới chỉ được nghiên cứu cho một khu vực (mỏ cát biển tỉnh Trà Vinh), các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn về độ mặn đối với cây trồng vật nuôi chưa đầy đủ.

Vì vậy, việc sử dụng đại trà vật liệu cát biển cần được tiếp tục thí điểm mở rộng ở các dự án với cấp quy mô, cấp thiết kế cao hơn, cũng như thí điểm ở các điều kiện tự nhiên, điều kiện môi trường, nguồn vật liệu cát biển khác nhau để có cơ sở đánh giá một cách toàn diện.

Tro xỉ, bùn nạo vét có thể thay thế cát đắp nền đường

Theo ông Lê Việt Hùng, Phó Giám đốc Trung tâm Xi măng và bêtông (Viện Vật liệu xây dựng), cho rằng có thể thay thế cát san lấp bằng tro xỉ nhiệt điện, xỉ ngành luyện kim như xỉ lò cao, xỉ thép.

Nguồn tro xỉ nhiệt điện có thể sử dụng đắp nền hoặc là nguyên liệu sản xuất xi măng có tiềm năng, bởi tro xỉ nhiệt điện tại Việt Nam là rất lớn (tới từ 30 nhà máy nhiệt điện), mỗi năm có khoảng 16 triệu tấn.

Theo thống kê của Bộ Xây dựng, lượng phát thải tro, xỉ từ 29 nhà máy nhiệt điện trên cả nước trong năm 2022 là khoảng 16 triệu tấn và sẽ tăng lên 20 triệu tấn vào năm 2025. Hiện cả nước còn khoảng 48 triệu tấn tro xỉ tồn đọng tại các bãi, cần được tái chế để giảm ô nhiễm môi trường và thay thế cát tự nhiên ở các dự án giao thông.

Nguồn xỉ lò cao tại nhà máy thép ước tính mỗi năm 4,6 triệu tấn, xỉ thép 3,9 triệu tấn cũng là vật liệu thay thế. Không chỉ sử dụng đắp nền, san lấp, đây còn là cốt liệu cho bêtông. Lợi thế của vật liệu này là giá rẻ, tương đương giá cát san lấp, tuy nhiên nhà máy thép tập trung ở miền Bắc, miền Trung; miền Nam nơi dự án cao tốc Bắc Nam đang thiếu cát, chỉ có một số nhà máy thép tại Bà Rịa – Vũng Tàu.

Bên cạnh đó, thạch cao phốt pho từ các nhà máy sản xuất phân bón DAP có thể làm phụ gia cho xi măng hoặc làm vật liệu san lấp. Công suất mỗi nhà máy có thể khai thác gần 2 triệu tấn mỗi năm. Đuôi quặng ngành chế biến mỏ, đất đá thải than từ các mỏ than ở Quảng Ninh có thể làm vật liệu san nền tiềm năng. Hàng năm các mỏ than đổ ra bãi thải khoảng 150 triệu m3 đất đá, chiếm dụng hàng nghìn hecta đất.

Bùn thải nạo vét tại sông cũng có thể là nguồn vật liệu đắp nền, vừa góp phần bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, bùn thải có độ ẩm cao, chứa đất sét và các tạp chất hữu cơ nên phải qua xử lý như giảm ẩm, phối trộn với các vật liệu khác như cát, đá nếu sử dụng làm vật liệu đắp nền.

Thực tế ở nhiều nước châu Âu như Anh, Hà Lan, thì bùn, chất nạo vét được ưu tiên tái sử dụng cho các mục đích xây dựng, một số nơi dùng bùn nạo vét để bồi đắp các khu vực ven biển, vùng đất bị tác động của thủy triều, vùng đầm lầy ngập mặn…

Tag:

tro xỉ

Sự trỗi dậy của nhà lắp ghép in 3D

Khi chi phí vật liệu xây dựng tăng cao, các nhà thầu và chủ đầu tư đang tìm kiếm các giải pháp thay thế cho các phương pháp xây dựng nhà truyền thống để giải quyết tình trạng thiếu nhà ở. Đáp lại, một lĩnh vực công nghệ xây dựng đang phát triển là ngành in 3D. Công nghệ này hứa hẹn việc xây dựng nhanh hơn, rẻ hơn và tiềm năng sản xuất vật liệu địa phương và tái chế. Tuy nhiên, do tính chất thay đổi chậm chạp của ngành xây dựng, một sự thay đổi triệt để liên quan đến việc lắp đặt máy in 3D quy mô lớn tại công trường và đại tu toàn bộ quy trình xây dựng dường như khó có thể xảy ra trong tương lai gần.

Kiến trúc công nghệ thấp: So sánh phương pháp của Shigeru Ban và Yasmeen Lari

Khái niệm kiến ​​trúc công nghệ thấp nhận thức được tác động của các công nghệ và phương pháp xây dựng phát thải carbon cao, đồng thời đề xuất một giải pháp thay thế: tái khám phá các giải pháp thiết thực, hợp lý, phù hợp với địa phương, dựa trên các chiến lược thiết kế thông minh thay vì các thiết bị tiêu tốn nhiều năng lượng để đảm bảo một môi trường sống an toàn và thoải mái. Không hề là một cách tiếp cận thụt lùi, thuật ngữ này vẫn cởi mở với những đổi mới nhưng tìm cách cân bằng lại sự phụ thuộc của ngành vào cơ giới hóa. Do đó, nó ủng hộ một kiến ​​trúc ít thành phần hơn, giảm thiểu sự phụ thuộc vào các giải pháp công nghệ cao và ưu tiên vật liệu carbon có hàm lượng carbon thấp.

Công nghệ bản địa là gì?

Kiến trúc bản địa ngày càng được chú trọng trong lý thuyết và thực tiễn thiết kế, với những đặc điểm đang được nghiên cứu và điều chỉnh. Đây là một động lực liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau, nhưng chủ yếu là bối cảnh biến đổi khí hậu mà chúng ta đang trải qua, đòi hỏi các giải pháp xây dựng bền vững và gắn kết với bối cảnh hơn.

Chúng ta làm gì với chất thải? Nền kinh tế tuần hoàn và các nước Nam bán cầu

Nhiều người trên thế giới sẽ đồng ý rằng chúng ta hiện đang trong tình trạng khẩn cấp về khí hậu. Các chuyên gia trong lĩnh vực xây dựng đã bắt tay vào hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, với các tổ chức như ACAN và Architects Declare đang thúc đẩy hiểu biết về carbon và kêu gọi các nhà thiết kế đánh giá lại cách thức thực hành của họ.

Phá bỏ định kiến "cấu trúc đúc sẵn là cứng nhắc và không hấp dẫn"

Thuật ngữ "nhà lắp ghép" có thể gợi lên hình ảnh những công trình xây dựng tiêu chuẩn và lặp đi lặp lại, giống như những công trình được xây dựng sau Thế chiến II, khi nhà ở nhanh chóng và giá cả phải chăng là ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, thực tế ngày nay đã hoàn toàn khác. Với sự tiến bộ của công nghệ và phương pháp xây dựng, nhà lắp ghép đã trở thành biểu tượng của sự đổi mới, khả năng thích ứng và thiết kế riêng. Nó cho phép tạo ra những không gian đa chức năng và linh hoạt, không chỉ đáp ứng nhu cầu thực tế mà còn đáp ứng các yêu cầu về thẩm mỹ và bền vững của kiến trúc hiện đại. Với vật liệu tiên tiến và công nghệ mới, nhà lắp ghép mang đến những giải pháp tùy chỉnh và linh hoạt cho cuộc sống hiện đại.

Ý kiến của bạn

SunGroup
VINGROUP
Rạng Đông
Nam Group
Hưng Thịnh Land
Vinmikh